NhatDuy
Intern Writer
Những năm gần đây, khi nhắc đến các dự án hạ tầng quy mô lớn tại Trung Quốc, nhiều người dễ liên tưởng tới những công trình thường được truyền thông quốc tế mô tả như các phép màu. Từ mạng lưới đường sắt cao tốc phủ kín cả nước cho tới dự án chuyển nước Nam Bắc đưa nước từ sông Dương Tử ra miền bắc, nhiều thành tựu trở nên nổi bật. Một ví dụ mới nhận được nhiều sự chú ý là dự án sông Hồng Kỳ, vốn được đánh giá có quy mô lớn đến mức gây choáng ngợp, với tổng vốn đầu tư ước tính khoảng 4 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương khoảng 14.000 nghìn tỷ VNĐ, và chiều dài hơn 6.000 km. Nhiều ý kiến còn cho rằng độ khó của nó ngang với việc xây dựng cùng lúc năm đập Tam Hiệp. Khi đưa tin, truyền thông nước ngoài đều tỏ ra dè dặt, nhận xét rằng khó có quốc gia nào khác có thể thực hiện nổi.
Ý tưởng của dự án sông Hồng Kỳ là hút nước từ những khu vực giàu nước này, xây dựng hệ thống kênh và chuyển về Tây Bắc, hướng tới mục tiêu chuyển khoảng 60 tỷ mét khối nước mỗi năm, gần gấp đôi lượng chảy của sông Hoàng Hà. Điều này được đặt kỳ vọng sẽ tạo hàng trăm triệu mẫu đất canh tác mới, cải thiện môi trường và thúc đẩy công nghiệp. Kế hoạch ban đầu được đề xuất năm 2017 bởi nhóm nghiên cứu S4679 do Giáo sư Vương Hạo ở Đại học Thanh Hoa dẫn đầu, lấy cảm hứng từ kênh đào Hồng Kỳ ở tỉnh Hà Nam, nơi người dân từng đào xuyên núi để giải quyết tưới tiêu.
Phiên bản hiện đại của sông Hồng Kỳ có quy mô vượt xa. Dòng chính bắt đầu từ trung lưu sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chảy qua Thanh Hải, Cam Túc, Ninh Hạ và xuống phía nam Tân Cương. Ba nhánh phụ gồm sông Hồng Nham chảy về Nội Mông, sông Mạc Bắc chạy qua Cam Túc và sông Xuân Phong vắt ngang phía bắc Thiểm Tây. Toàn mạng lưới bao phủ vùng rộng lớn Tây Bắc.
Mức độ khó được so sánh với năm đập Tam Hiệp bởi tổng chiều dài lên tới 6.188 km, vượt xa chu vi hồ chứa Tam Hiệp. Tuyến kênh phải vượt cao nguyên, núi non và sa mạc, đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Điểm xuất phát nằm ở rìa cao nguyên Thanh Hải Tây Tạng ở độ cao hơn 4.000 m, khu vực thường có động đất và lớp đất đóng băng vĩnh cửu. Việc đào hầm qua đá cứng yêu cầu sử dụng máy khoan hiện đại, có đoạn dài hàng trăm km. Tại Thanh Hải, các hầm phải uốn quanh dãy Tanggula và kiểm soát độ dốc chính xác đến từng phần nghìn. Ở Cam Túc, hiện tượng lở đất và xói mòn nghiêm trọng buộc phải gia cố tường kênh. Ninh Hạ lại có chênh lệch độ cao lớn từ 3.600 m xuống 900 m, cần tính toán kỹ để tránh nhiễm mặn do nước ngầm giàu muối.
Khi sang Tân Cương, nước có thể tưới cho lưu vực Tarim, nhưng việc bảo trì tại vùng không có dân cư rất khó, nhất là đối mặt với bão cát. Toàn dự án thiết kế để nước chảy tự nhiên, không dùng trạm bơm nhằm giảm chi phí điện, nên yêu cầu vị trí đường kênh phải cực kỳ chính xác. Về tài chính, tổng mức đầu tư khoảng 14.000 nghìn tỷ VNĐ, trung bình 1.400 nghìn tỷ VNĐ mỗi năm trong suốt giai đoạn xây dựng. Phần vốn chủ yếu từ chính quyền trung ương, còn địa phương đối ứng và kết hợp với các nguồn tài chính khác. Việc định giá nước phức tạp bởi cần đảm bảo người dân không chịu chi phí quá nặng nhưng vẫn đủ để bảo trì. Riêng Ninh Hạ chỉ có khoảng 15 tỷ mét khối nước mỗi năm, thiếu hụt 8,6 tỷ VNĐ chi phí, buộc phải tính toán kỹ các loại phí.
Tencent.com năm 2023 dẫn truyền thông nước ngoài nhận định dự án này còn khó hơn cả năm đập Tam Hiệp vì cần đào kênh dài vô tận qua khu không người ở. Tháng 6 năm 2025, Sohu đưa tin nước ngoài thổi phồng rằng Trung Quốc đang xây công trình cỡ 20 đập Tam Hiệp, nhưng thực tế chỉ là vấn đề tiềm năng chuyển nước. NetEase năm 2023 cũng trích nhiều ý kiến cho rằng chỉ Trung Quốc mới đủ năng lực vì có kinh nghiệm từ dự án Nam Bắc và đường sắt cao tốc.
Những thách thức không chỉ ở địa chất hay tài chính. Môi trường sinh thái là yếu tố then chốt. Lượng nước hút từ thượng nguồn chỉ được phép dưới 20 phần trăm tổng lượng để tránh ảnh hưởng Ấn Độ và Bangladesh. Việc chia sẻ dữ liệu thủy văn phải được thực hiện để giảm lo ngại lũ lụt và tưới tiêu. Hạ lưu sông Nu ở Myanmar cũng yêu cầu đàm phán nhiều năm. Ngay trong lãnh thổ Trung Quốc, các vùng đất ngập nước Tây Tạng rất mong manh, ảnh hưởng đến linh dương Tây Tạng và sếu cổ đen nên cần lập trạm theo dõi. Khu hạ lưu cũng phải xử lý nhiễm mặn để tránh thoái hóa đất. Các nguy cơ địa chất dọc tuyến như lở đất buộc phải khảo sát kỹ. Năm 2018, nhóm nghiên cứu đã họp tại Bắc Kinh với hơn 30 chuyên gia để xây dựng báo cáo địa chất.
Đến năm 2019, Zhao Xitao và nhóm công bố nghiên cứu trên Acta Geologica Sinica về đặc điểm lũ, đề xuất thay đổi tuyến tránh đất đóng băng vĩnh cửu. Năm 2020, dịch bệnh làm chậm khảo sát nhưng nhóm vẫn tối ưu hóa bố cục hồ chứa và lên kế hoạch xây dựng cơ sở chứa 5 tỷ mét khối ở Thanh Hải. Năm 2021 có đánh giá tác động quốc tế, năm 2022 công bố chi tiết đầu tư, năm 2023 bổ sung báo cáo môi trường. Tháng 5 năm 2024 có tin đồn dự án khởi công nhưng sau đó bị bác bỏ, khẳng định vẫn trong nghiên cứu. Cục Tài nguyên nước Tân Cương cũng cho biết chưa nhận chỉ đạo. Tháng 7 năm 2025, nhà máy thủy điện mới ở hạ lưu Yarlung Tsangpo được công bố, có vị trí trùng với khu vực điểm lấy nước của sông Hồng Kỳ, khiến nhiều người suy đoán đây là bước chuẩn bị nhưng tài liệu cho thấy dự án độc lập. Tháng 8, nhóm nghiên cứu tổ chức hội thảo về giám sát bằng máy bay không người lái.
Nếu hoàn thành, dự án có thể bổ sung 80 triệu mẫu đất canh tác cho Tây Bắc, tương đương một đồng bằng Đông Bắc mới, tăng mạnh an ninh lương thực. Tân Cương có thể trở thành trung tâm của Trung Á, hỗ trợ sáng kiến Vành đai và Con đường. Môi trường sa mạc được cải thiện, tăng độ phủ thực vật, điều tiết khí hậu và giảm bão cát. Nguồn nước công nghiệp ổn định có thể khôi phục kinh tế, biến Tân Cương từ vùng biên thành vùng trung tâm. Ở quy mô quốc gia, dự án củng cố tài nguyên chiến lược, hỗ trợ phát triển cân bằng và mang lại lợi ích cho hàng trăm triệu người.
Tuy nhiên, quy mô lớn dẫn tới tiến độ chậm, cần nghiên cứu khả thi kỹ để tránh lặp lại một số hạn chế của giai đoạn đầu dự án Nam Bắc như chất lượng nước và tái định cư. Cho đến nay, dự án vẫn nằm trong giai đoạn lập kế hoạch, chưa được phê duyệt. Các chuyên gia đang mô phỏng tác động khí hậu, điều chỉnh tuyến tránh khu sinh thái và đảm bảo bảo vệ động vật hoang dã Tây Tạng bằng cách đặt điểm lấy nước ở khúc quanh lớn của Yarlung Tsangpo, nơi lượng mưa lớn. Các tuyến phụ gồm Hồng Nham chảy vào sa mạc Mu Us, Mobei đi qua đồng bằng Hetao, Xuân Phong kết nối dãy Helan.
Hệ thống gồm đường hầm, kênh hở, cống dẫn và ống xi phông phải được hoàn thành đồng bộ, nếu xảy ra sự cố ở một đoạn sẽ ảnh hưởng toàn mạng lưới. Nguồn vốn cần đa dạng, kết hợp ngân sách và trái phiếu, đồng thời tính toán thời gian hoàn vốn. Giá nước phải hợp lý để người dân không chịu gánh nặng quá lớn nhưng vẫn đảm bảo chi phí vận hành.
Lý do khiến thế giới nhận định chỉ Trung Quốc mới có thể làm được đến từ khả năng tập trung nguồn lực. Trung Quốc từng mất hơn một thập kỷ từ chỗ không có đường sắt cao tốc đến trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới. Dự án Nam Bắc đã hoàn thành hai tuyến lớn, tạo kinh nghiệm trực tiếp. Công nghệ xây dựng đập Tam Hiệp đã rất hoàn thiện và có thể áp dụng cho việc đào hầm và gia cố. Lực lượng lao động và máy móc lớn từ các doanh nghiệp như XCMG hay Sany Heavy Industry là lợi thế lớn. Trong khi đó, các dự án chuyển nước quốc tế như tại California có quy mô nhỏ hơn nhiều và thường xảy ra tranh chấp. Tuy vậy, các rủi ro về môi trường hay lãng phí vốn vẫn tồn tại, đòi hỏi quản lý chặt.
Sông Hồng Kỳ là một kế hoạch tham vọng nhằm giải quyết thiếu nước và tăng phát triển cân bằng cho Tây Bắc. Nhưng dự án cũng phải đối mặt nhiều thách thức từ địa chất, sinh thái đến quan hệ quốc tế. Truyền thông nước ngoài ghi nhận năng lực hạ tầng của Trung Quốc nhưng khả năng triển khai cuối cùng vẫn phụ thuộc các nghiên cứu sắp tới. Trong vài năm tiếp theo, có thể sẽ có nhiều tín hiệu mới. Nếu nước thực sự tới được vùng đất khô hạn của Tây Bắc Trung Quốc, dự án này sẽ mang ý nghĩa lớn, không chỉ về xây dựng mà còn thay đổi cả tương lai khu vực, và mọi bước đi đều phải dựa trên khoa học. (Sohu)
Thách thức địa hình, khí hậu và thiết kế kỹ thuật
Khu vực Tây Bắc Trung Quốc vốn rất khan hiếm nước. Các vùng như Tân Cương, Cam Túc hay Ninh Hạ chỉ nhận lượng mưa khoảng 50 đến 100 mm mỗi năm, đất đai rộng nhưng phần lớn là sa mạc và Gobi, khiến sản xuất nông nghiệp gần như không thể mở rộng. Ngược lại, các con sông tại Tây Nam, đặc biệt là những dòng chảy ở phía đông nam cao nguyên Thanh Hải Tây Tạng như sông Yarlung Tsangpo, sông Nujiang hay sông Lancang lại có nguồn nước dồi dào, mỗi năm đổ vào Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Ý tưởng của dự án sông Hồng Kỳ là hút nước từ những khu vực giàu nước này, xây dựng hệ thống kênh và chuyển về Tây Bắc, hướng tới mục tiêu chuyển khoảng 60 tỷ mét khối nước mỗi năm, gần gấp đôi lượng chảy của sông Hoàng Hà. Điều này được đặt kỳ vọng sẽ tạo hàng trăm triệu mẫu đất canh tác mới, cải thiện môi trường và thúc đẩy công nghiệp. Kế hoạch ban đầu được đề xuất năm 2017 bởi nhóm nghiên cứu S4679 do Giáo sư Vương Hạo ở Đại học Thanh Hoa dẫn đầu, lấy cảm hứng từ kênh đào Hồng Kỳ ở tỉnh Hà Nam, nơi người dân từng đào xuyên núi để giải quyết tưới tiêu.
Phiên bản hiện đại của sông Hồng Kỳ có quy mô vượt xa. Dòng chính bắt đầu từ trung lưu sông Nhã Lỗ Tạng Bố, chảy qua Thanh Hải, Cam Túc, Ninh Hạ và xuống phía nam Tân Cương. Ba nhánh phụ gồm sông Hồng Nham chảy về Nội Mông, sông Mạc Bắc chạy qua Cam Túc và sông Xuân Phong vắt ngang phía bắc Thiểm Tây. Toàn mạng lưới bao phủ vùng rộng lớn Tây Bắc.
Mức độ khó được so sánh với năm đập Tam Hiệp bởi tổng chiều dài lên tới 6.188 km, vượt xa chu vi hồ chứa Tam Hiệp. Tuyến kênh phải vượt cao nguyên, núi non và sa mạc, đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Điểm xuất phát nằm ở rìa cao nguyên Thanh Hải Tây Tạng ở độ cao hơn 4.000 m, khu vực thường có động đất và lớp đất đóng băng vĩnh cửu. Việc đào hầm qua đá cứng yêu cầu sử dụng máy khoan hiện đại, có đoạn dài hàng trăm km. Tại Thanh Hải, các hầm phải uốn quanh dãy Tanggula và kiểm soát độ dốc chính xác đến từng phần nghìn. Ở Cam Túc, hiện tượng lở đất và xói mòn nghiêm trọng buộc phải gia cố tường kênh. Ninh Hạ lại có chênh lệch độ cao lớn từ 3.600 m xuống 900 m, cần tính toán kỹ để tránh nhiễm mặn do nước ngầm giàu muối.
Khi sang Tân Cương, nước có thể tưới cho lưu vực Tarim, nhưng việc bảo trì tại vùng không có dân cư rất khó, nhất là đối mặt với bão cát. Toàn dự án thiết kế để nước chảy tự nhiên, không dùng trạm bơm nhằm giảm chi phí điện, nên yêu cầu vị trí đường kênh phải cực kỳ chính xác. Về tài chính, tổng mức đầu tư khoảng 14.000 nghìn tỷ VNĐ, trung bình 1.400 nghìn tỷ VNĐ mỗi năm trong suốt giai đoạn xây dựng. Phần vốn chủ yếu từ chính quyền trung ương, còn địa phương đối ứng và kết hợp với các nguồn tài chính khác. Việc định giá nước phức tạp bởi cần đảm bảo người dân không chịu chi phí quá nặng nhưng vẫn đủ để bảo trì. Riêng Ninh Hạ chỉ có khoảng 15 tỷ mét khối nước mỗi năm, thiếu hụt 8,6 tỷ VNĐ chi phí, buộc phải tính toán kỹ các loại phí.
Lo ngại môi trường, quan hệ quốc tế và tiến độ nghiên cứu
Truyền thông quốc tế đã bày tỏ nhiều quan điểm về dự án. Một số kinh ngạc trước quy mô, một số khác tỏ ra nghi ngờ. Năm 2021, The Diplomat cảnh báo sông Hồng Kỳ liên quan tuyến nước xuyên biên giới và có thể làm thay đổi tình hình tài nguyên nước Nam Á, đòi hỏi cân nhắc về ngoại giao. The Guardian thì nhấn mạnh hạ tầng Trung Quốc đứng đầu thế giới, nhưng các dự án chuyển nước như vậy khó có thể thực hiện ở nước khác do rủi ro địa chất và sinh thái. Một số báo Mỹ lại cho rằng nếu hoàn thành, dự án có thể thúc đẩy kinh tế Tây Bắc Trung Quốc, nhưng cũng có nguy cơ làm tổn hại các vùng đất ngập nước ở Tây Tạng và ảnh hưởng môi trường sống động vật.Tencent.com năm 2023 dẫn truyền thông nước ngoài nhận định dự án này còn khó hơn cả năm đập Tam Hiệp vì cần đào kênh dài vô tận qua khu không người ở. Tháng 6 năm 2025, Sohu đưa tin nước ngoài thổi phồng rằng Trung Quốc đang xây công trình cỡ 20 đập Tam Hiệp, nhưng thực tế chỉ là vấn đề tiềm năng chuyển nước. NetEase năm 2023 cũng trích nhiều ý kiến cho rằng chỉ Trung Quốc mới đủ năng lực vì có kinh nghiệm từ dự án Nam Bắc và đường sắt cao tốc.
Những thách thức không chỉ ở địa chất hay tài chính. Môi trường sinh thái là yếu tố then chốt. Lượng nước hút từ thượng nguồn chỉ được phép dưới 20 phần trăm tổng lượng để tránh ảnh hưởng Ấn Độ và Bangladesh. Việc chia sẻ dữ liệu thủy văn phải được thực hiện để giảm lo ngại lũ lụt và tưới tiêu. Hạ lưu sông Nu ở Myanmar cũng yêu cầu đàm phán nhiều năm. Ngay trong lãnh thổ Trung Quốc, các vùng đất ngập nước Tây Tạng rất mong manh, ảnh hưởng đến linh dương Tây Tạng và sếu cổ đen nên cần lập trạm theo dõi. Khu hạ lưu cũng phải xử lý nhiễm mặn để tránh thoái hóa đất. Các nguy cơ địa chất dọc tuyến như lở đất buộc phải khảo sát kỹ. Năm 2018, nhóm nghiên cứu đã họp tại Bắc Kinh với hơn 30 chuyên gia để xây dựng báo cáo địa chất.
Đến năm 2019, Zhao Xitao và nhóm công bố nghiên cứu trên Acta Geologica Sinica về đặc điểm lũ, đề xuất thay đổi tuyến tránh đất đóng băng vĩnh cửu. Năm 2020, dịch bệnh làm chậm khảo sát nhưng nhóm vẫn tối ưu hóa bố cục hồ chứa và lên kế hoạch xây dựng cơ sở chứa 5 tỷ mét khối ở Thanh Hải. Năm 2021 có đánh giá tác động quốc tế, năm 2022 công bố chi tiết đầu tư, năm 2023 bổ sung báo cáo môi trường. Tháng 5 năm 2024 có tin đồn dự án khởi công nhưng sau đó bị bác bỏ, khẳng định vẫn trong nghiên cứu. Cục Tài nguyên nước Tân Cương cũng cho biết chưa nhận chỉ đạo. Tháng 7 năm 2025, nhà máy thủy điện mới ở hạ lưu Yarlung Tsangpo được công bố, có vị trí trùng với khu vực điểm lấy nước của sông Hồng Kỳ, khiến nhiều người suy đoán đây là bước chuẩn bị nhưng tài liệu cho thấy dự án độc lập. Tháng 8, nhóm nghiên cứu tổ chức hội thảo về giám sát bằng máy bay không người lái.
Nếu hoàn thành, dự án có thể bổ sung 80 triệu mẫu đất canh tác cho Tây Bắc, tương đương một đồng bằng Đông Bắc mới, tăng mạnh an ninh lương thực. Tân Cương có thể trở thành trung tâm của Trung Á, hỗ trợ sáng kiến Vành đai và Con đường. Môi trường sa mạc được cải thiện, tăng độ phủ thực vật, điều tiết khí hậu và giảm bão cát. Nguồn nước công nghiệp ổn định có thể khôi phục kinh tế, biến Tân Cương từ vùng biên thành vùng trung tâm. Ở quy mô quốc gia, dự án củng cố tài nguyên chiến lược, hỗ trợ phát triển cân bằng và mang lại lợi ích cho hàng trăm triệu người.
Tuy nhiên, quy mô lớn dẫn tới tiến độ chậm, cần nghiên cứu khả thi kỹ để tránh lặp lại một số hạn chế của giai đoạn đầu dự án Nam Bắc như chất lượng nước và tái định cư. Cho đến nay, dự án vẫn nằm trong giai đoạn lập kế hoạch, chưa được phê duyệt. Các chuyên gia đang mô phỏng tác động khí hậu, điều chỉnh tuyến tránh khu sinh thái và đảm bảo bảo vệ động vật hoang dã Tây Tạng bằng cách đặt điểm lấy nước ở khúc quanh lớn của Yarlung Tsangpo, nơi lượng mưa lớn. Các tuyến phụ gồm Hồng Nham chảy vào sa mạc Mu Us, Mobei đi qua đồng bằng Hetao, Xuân Phong kết nối dãy Helan.
Hệ thống gồm đường hầm, kênh hở, cống dẫn và ống xi phông phải được hoàn thành đồng bộ, nếu xảy ra sự cố ở một đoạn sẽ ảnh hưởng toàn mạng lưới. Nguồn vốn cần đa dạng, kết hợp ngân sách và trái phiếu, đồng thời tính toán thời gian hoàn vốn. Giá nước phải hợp lý để người dân không chịu gánh nặng quá lớn nhưng vẫn đảm bảo chi phí vận hành.
Lý do khiến thế giới nhận định chỉ Trung Quốc mới có thể làm được đến từ khả năng tập trung nguồn lực. Trung Quốc từng mất hơn một thập kỷ từ chỗ không có đường sắt cao tốc đến trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới. Dự án Nam Bắc đã hoàn thành hai tuyến lớn, tạo kinh nghiệm trực tiếp. Công nghệ xây dựng đập Tam Hiệp đã rất hoàn thiện và có thể áp dụng cho việc đào hầm và gia cố. Lực lượng lao động và máy móc lớn từ các doanh nghiệp như XCMG hay Sany Heavy Industry là lợi thế lớn. Trong khi đó, các dự án chuyển nước quốc tế như tại California có quy mô nhỏ hơn nhiều và thường xảy ra tranh chấp. Tuy vậy, các rủi ro về môi trường hay lãng phí vốn vẫn tồn tại, đòi hỏi quản lý chặt.
Sông Hồng Kỳ là một kế hoạch tham vọng nhằm giải quyết thiếu nước và tăng phát triển cân bằng cho Tây Bắc. Nhưng dự án cũng phải đối mặt nhiều thách thức từ địa chất, sinh thái đến quan hệ quốc tế. Truyền thông nước ngoài ghi nhận năng lực hạ tầng của Trung Quốc nhưng khả năng triển khai cuối cùng vẫn phụ thuộc các nghiên cứu sắp tới. Trong vài năm tiếp theo, có thể sẽ có nhiều tín hiệu mới. Nếu nước thực sự tới được vùng đất khô hạn của Tây Bắc Trung Quốc, dự án này sẽ mang ý nghĩa lớn, không chỉ về xây dựng mà còn thay đổi cả tương lai khu vực, và mọi bước đi đều phải dựa trên khoa học. (Sohu)