Nguồn năng lượng sạch chưa được nhân loại khai phá: hơn 5.000 tỷ tấn hydro tự nhiên

Homelander The Seven
Homelander The Seven
Phản hồi: 0

Homelander The Seven

I will laser every f****** one of you!
Hydro tự nhiên, tương tự như nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ và than đá, là một nguồn năng lượng sơ cấp có thể được khai thác trực tiếp từ thiên nhiên, nhưng không giống như nhiên liệu hóa thạch, nó là một nguồn năng lượng sạch 100% không thải ra khí nhà kính. Không giống như hydro tổng hợp được sản xuất bằng nhiên liệu hóa thạch, nó được gọi là "hydro trắng" vì nó không thải ra khí nhà kính trong quá trình sản xuất, và "hydro vàng" vì nó được khai thác trực tiếp từ lòng đất như vàng.

Tuy nhiên, nó hiện là một nguồn tài nguyên tiềm năng trong tương lai đang trong giai đoạn thăm dò. Các nhà nghiên cứu tại Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ gần đây đã công bố một nghiên cứu cho thấy có 5,6 nghìn tỷ tấn hydro tự nhiên trong lòng đất. Tuy nhiên, hầu như vẫn còn là một bí ẩn về việc cụ thể có bao nhiêu hydro tự nhiên tồn tại ở đâu.

Một nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Khoa học Trái đất Helmholtz GFZ của Đức đã đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi này. Các nhà nghiên cứu đã công bố trên tạp chí khoa học quốc tế "Science Advances" rằng các dãy núi được hình thành do sự va chạm của các mảng kiến tạo, nơi đá lớp phủ trồi lên, có thể chứa một lượng đáng kể hydro tự nhiên. Nhóm nghiên cứu đã trích dẫn dãy núi Pyrenees và dãy Alps ở châu Âu và một phần của dãy Himalaya ở châu Á làm ví dụ.

1740650164086.png


Nhóm nghiên cứu đã đi đến kết luận này thông qua mô hình cấu trúc mảng. Có một số cách mà hydro tự nhiên được tạo ra, bao gồm sự phân hủy các chất hữu cơ bởi vi khuẩn và sự phân hủy các phân tử nước do sự phân rã của các nguyên tố phóng xạ.

Trong số này, các nhà khoa học coi quá trình địa chất trong đó đá lớp phủ phản ứng với nước là hứa hẹn nhất. Lớp phủ là một lớp đá nằm sâu dưới lớp vỏ Trái Đất. Ở phía trên của lớp phủ, olivine được phân bố rộng rãi. Hydro tự nhiên được tạo ra trong quá trình olivine giàu thành phần sắt phản ứng với nước ở nhiệt độ cao để trở thành đá serpentine. Sắt lấy các nguyên tử oxy từ các phân tử nước, giải phóng hydro. Do đó, để olivine tiếp xúc với nước và tạo ra đá serpentine, nó phải nổi lên gần bề mặt thông qua hoạt động của lớp vỏ.

Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng có hai loại biến động địa chất làm cho đá lớp phủ nổi lên và trở thành đá serpentine. Loại thứ nhất là quá trình các mảng kiến tạo lục địa tách ra và các lưu vực đại dương mở ra. Điều này làm cho lớp vỏ lục địa mỏng đi hoặc nứt ra, khiến lớp phủ trồi lên. Đại Tây Dương là một ví dụ về điều này. Loại thứ hai là quá trình các mảng lục địa lại hợp nhất hoặc va chạm, đóng các lưu vực đại dương và hình thành các dãy núi. Trong trường hợp này, đá lớp phủ cũng bị đẩy lên phía bề mặt. Dãy núi Pyrenees và dãy Alps là những ví dụ về điều này.

1740650172317.png


Nhóm nghiên cứu đã mô phỏng toàn bộ quá trình hai loại biến động xảy ra dựa trên dữ liệu địa chất và phát hiện ra rằng quá trình hình thành dãy núi do va chạm của các mảng kiến tạo lục địa tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho việc tạo ra hydro tự nhiên so với quá trình hình thành lưu vực đại dương do sự nứt vỡ của các mảng kiến tạo.

Điều này là do trong quá trình hình thành các dãy núi, nhiều đá lớp phủ hơn được tiếp xúc với nhiệt độ 200-350 độ thích hợp cho sự thay đổi thành đá serpentine. Đồng thời, nước lưu thông dọc theo các đứt gãy lớn của dãy núi, có khả năng thúc đẩy quá trình serpentine hóa trên quy mô lớn. Trong trường hợp này, lượng hydro tự nhiên được tạo ra trong các dãy núi được ước tính gấp 20 lần so với trường hợp hình thành trong các lưu vực đại dương.

Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các dãy núi có nhiều đá như đá sa thạch có thể giữ một lượng lớn hydro tự nhiên, nhưng các lưu vực đại dương không có khả năng có những loại đá như vậy. Trên thực tế, ở châu Âu, nơi đang tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, công việc thăm dò hydro tự nhiên đang được tiến hành, tập trung vào dãy núi Pyrenees, dãy Alps và Bán đảo Balkan. Nghiên cứu này có khả năng thúc đẩy việc thăm dò hydro tự nhiên ở các khu vực miền núi này.

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh: "Để tạo ra các kho chứa hydro tự nhiên cùng với sự hình thành của các dãy núi, phải có một quá trình nứt vỡ mảng trước đó","các chiến lược phát triển và thăm dò dựa trên lịch sử chuyển động lớp vỏ của địa điểm thăm dò phải được thiết lập."
1740650185476.png
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Top