VnReview
Hà Nội

Chân dung tàu khu trục lớp Gepard Nga đóng cho Việt Nam

Chiến hạm Project 11661 lớp Gepard được phát triển và đóng bởi nhà máy đóng tàu Zelenodolsk Shipyard dành cho thị trường xuất khẩu. Có tới 5 phiên bản khác nhau được thiết kế để Nga bán cho nước ngoài. Được thiết kế để thực thi các nhiệm vụ hộ tống và tuần tra, chiến hạm lớp Gepard có thể tấn công tàu, tàu ngầm và các mục tiêu đối phương trên không. Chiến hạm có thể được triển khai độc lập hoặc tham gia cùng đơn vị tác chiến.

Tàu khu trục lớp Gepard

Tàu khu trục lớp Gepard. Ảnh: RIA Novosti

Sống tàu của chiến hạm đầu tiên, Tatarstan (trước đây được gọi là Yastreb) được đặt tại nhà máy Zelenodolsk Zavod tại Tatarstan vào năm 1991. Quá trình thi công bị tạm ngừng vào năm 1995 do thiếu vốn. Sau đó Tatarstan được hạ thủy vào tháng Bảy 2001 và gia nhập biên chế lực lượng hải quân Nga vào tháng 8/2002.

Con tàu thứ hai, Dagestan (trước đây được gọi là Albatross) được đặt vào năm 1993 và xuất xưởng tháng Tư 2011 để bắt đầu thực hiện nhiệm vụ vào cuối năm 2011.

Theo Đài tiếng nói nước Nga, hôm thứ Ba (24/9), nhà máy đóng tàu Gorky ở Zelenodol đã khởi công xây dựng thêm hai tàu khu trục nhỏ "Gepard - 3.9" cho lực lượng hải quân Việt Nam.

"Xây dựng một cặp tàu khu trục chống ngầm thứ hai cho Hải quân Việt Nam là tiếp nối công việc hợp tác quân sự - kỹ thuật quốc tế. Năm 2005 đã ký hợp đồng xây dựng cặp tàu dự án 11661 "Gepard - 3.9" đầu tiên. Nhà máy đã thực hiện thành công tất cả các giai đoạn xây dựng, quốc kỳ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được kéo lên hai tàu khu trục đầu tiên hồi tháng ba và tháng 8/2011", trích thông cáo của Nhà máy Gorky. Được biết, một trong hai con tàu được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng.

Trong 15 tháng, nhóm bảo hành gồm các chuyên gia nhà máy và các nhà thầu đã thực hiện công tác bảo dưỡng tàu khu trục, kiểm tra tính sẵn sàng chiến đấu, đào tạo cán bộ và giải quyết các sự cố trong thời gian hoạt động. Tàu thể hiện khả năng đi biển cao trong biển Đông.

Hợp đồng liên chính phủ về việc cung cấp cặp tàu khu trục thứ hai "Gepard - 3.9" đã được ký kết trong tháng 10/2012. Hợp đồng chính phủ giữa Công ty Cổ phần "Rosoboronexport" và "Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky" đã được ký kết vào tháng Hai năm 2013.

Sự khác biệt chính giữa cặp tàu mới so với tàu khu trục trước đó là sự hiện diện của vũ khí chống tàu ngầm và sử dụng động cơ hiện đại hơn với các đặc tính cải thiện hơn.

gepard frigate

Thiết kế và tính năng của lớp Gepard

Vỏ tàu được chế tạo từ thép hợp kim thấp được chia làm 10 ngăn kín nước. Hợp kim nhôm-magiê được sử dụng cho phần thượng tầng của tàu. Con tàu được thiết kế để có thể nổi kể cả khi 2 ngăn liền nhau bị ngập. Chiến hạm có thể triển khai vũ khí khi biển động ở mức 5.

Tiếng ồn dưới nước được giảm thiểu để không gây ảnh hưởng lên hệ thống định vị dưới nước. Radar thứ hai, trường nhiệt độ, từ trường và điện trường tạo ra bởi con tàu cũng được giảm xuống.

Chiến hạm được trang bị boong cất/hạ cánh dành cho máy bay trực thăng, có thể đem theo các loại trực thăng hải quân như Ka-28 hoặc Ka-31 Helix. Hệ thống điều hòa không khí tạo không gian thoải mái cho toàn bộ thủy thủ đoàn ở tất cả các khu vực trên tàu.

ka 28 ka 31

Lớp Gepard có chiều dài 102m, chiều rộng 13,7m và mớn nước 5,3m. Độ giãn nước của tàu là 2.100 tấn. Chiến hạm có thể chứa tối đa thủy thủ đoàn lên tới 102 người.

Tên lửa

Lớp Gepard được trang bị hệ thống Uran-E có thể phóng đi các tên lửa chống hạm Kh-35E. Kh-35E có thể phá hủy các tàu tên lửa dẫn đường, ngư lôi và thuyền trang bị súng hoặc tàu đối phương lên tới 5.000 tấn.

uran e kh 35e

Súng

Súng được sử dụng chính là loại AK-176M 7,62mm, có thể bắn 120 viên/phút với tầm xa 10km. Chiến hạm còn được trang bị 2 hệ thống súng AK-630M 30mm.

ak 176m

Hệ thống phòng không Palma được trang bị Sosna-R SAM và hệ thống điều khiển hỏa lực 3V-89 cỡ đạn nhỏ hoặc vừa. Palma có thể bảo vệ chiến hạm khỏi các tên lửa hành trình chống hạm và bom dẫn đường trên không. Hệ thống này còn có thể được triển khai để chống lại các máy bay cánh xoay hoặc cánh cố định, tàu nhỏ hơn và các mục tiêu trên mặt đất.

Chống ngầm của lớp Gepard

Hệ thống chống ngầm bao gồm 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 533mm và phóng rocket chống ngầm RBU-6000 12 nòng. Khoảng 12-20 quả mìn được đặt trên 2 rải mìn.

Cảm biến, radar và thiết bị đối kháng điện tử

Hệ thống radar bao gồm Cross Dome trên mặt nước và trên không cùng với radar điều khiển hỏa lực Pop Group SA-N-4. Bộ định vị dưới nước Zarrnitsa được tích hợp định vị MF gắn trên vỏ tàu và định vị thủy âm ở độ sâu khác nhau VDS.

Chiến hạm lớp Gepard 3.9 được trang bị chỉ thị mục tiêu tên lửa hành trình Bass Stand và phát hiện tín hiệu laser Spectr-FN. Hệ thống đối kháng điện tử ASOR-11661 ECM, 2 thiết bị chắn thụ động Bell Shroud, 2 máy làm nhiễu Bell Squat tăng cường sức mạnh của lớp Gepard về mặt điện tử. 4 bệ phóng tên lửa phản công 16 ống PK-16 được trang bị để đối phó với các tên lửa chống hạm.

Hệ thống truyền động

Lớp Gepard sử dụng hệ thống truyền động kết hợp gas hoặc diesel, bao gồm 2 tuốc-bin gas và một động cơ diesel Type 61D. Hệ thống điện trên tàu được cung cấp bởi 3 máy phát điện diesel công suất 600kW.

Các tàu đóng cho Việt Nam được trang bị thêm cánh quạt đẩy ở mũi. Tốc độ tối đa lớp Gepard 3.9 có thể đạt được là 28 hải lý/giờ, tầm hoạt động 5000 hải lý tại tốc độ 10 hải lý/giờ.

Việt Dũng

Theo Naval Technology

Chủ đề khác