Năm năm trước, chiếc máy bay MH370 đã biến mất trên vùng biển Ấn Độ Dương, chôn vùi cùng nó nhiều bí ẩn mà giới chức trách Malaysia không muốn công bố.
VnReview chuyển ngữ bài điều tra về chuyến máy mất tích bí ẩn MH370 của Malaysia. Đây là vụ mất tích máy bay đến nay được coi là bí ẩn nhất của ngành hàng không thế giới.
1. Biến mất
Lúc 12 giờ 42 phút đêm ngày 8/3/2018, chiếc máy bay Boeing 777-200ER vận hành bởi hãng hàng không Malaysia Airlines đã cất cánh từ Kuala Lumpur để bay tới Bắc Kinh ở độ cao 35.000 feet. MH là mã chỉ định cho hãng hàng không Malaysia Airlines, còn 370 là số hiệu chuyến bay. Cơ phó của chuyến bay này là Fariq Hamid, 27 tuổi, đây là chuyến bay huấn luyện và cũng là chuyến bay cuối cùng anh được tham gia. Người tập huấn cho anh lần này chính là một trong những cơ trưởng cấp cao tại Malaysia Airlines, Zaharie Ahmad Shah, 53 tuổi.
Zaharie đã kết hôn và có ba người con. Ông sống trong một khu đô thị cách biệt, sở hữu hai ngôi nhà. Ông thậm chí còn lắp đặt hẳn hệ thống bay mô phỏng của Microsoft trong ngôi nhà đầu tiên của mình. Zaharie thường xuyên sử dụng hệ thống này và tự hào khoe lên nhiều diễn đàn trực tuyến về sở thích của mình. Với chức vụ của mình, Zaharie chắc chắn sẽ nhận được sự kính trọng từ Fariq, nhưng theo những người xung quanh thì ông không phải là người có tính hách dịch.
Ngoài ra, trong cabin còn có 10 tiếp viên khác, tất cả đều là người Malaysia. Họ là người sẽ phục vụ cho 227 hành khách có mặt trên máy bay. Đa số hành khách là người Trung Quốc phần nhỏ còn lại là 38 người Malaysia và một vài công dân từ các quốc gia bao Indonesia, Úc, Ấn Độ, Pháp, Mỹ, Iran, Ukraine, Canada, New Zealand, Hà Lan, Nga và Đài Loan. Trong buồn lái đêm hôm ấy, trong khi cơ trưởng Zaharie phải bận rộn điều khiển bộ đàm thì cơ phó Fariq chịu trách nhiệm điều hành máy bay.
Tín hiệu truyền đi của Zaharie có đôi chút khác thường. Vào lúc 1 giờ 1 phút sáng, ông thông báo qua bộ đàm rằng máy bay đã đạt độ cao 35.000 feet. Thông báo này chính là điểm khác thường khi mà máy bay đang di chuyển trong vùng bay được giám sát bởi hệ thống radar, người ta sẽ chỉ báo cáo khi thực hiện khi thay đổi độ cao chứ không hề báo cáo về độ cao mà máy bay vừa chạm tới. Bảy phút sau, MH370 rời khỏi vùng biển Malaysia để đi vào Biển Đông theo hướng Việt Nam. Lúc này, Zaharie lại tiếp tục nhắc lại rằng độ cao của máy bay khi đó là 35.000 feet.
Mười một phút sau, khi chiếc máy bay tới gần không phận do Việt Nam điều hành, điều phối viên tại Trung tâm Kuala Lumpur đã thông báo: "Malaysia ba-bảy-không, liên lạc với Hồ Chí Minh tại tần số một-hai-không-phẩy-chín. Chúc ngủ ngon". Sau đó Zaharie đã trả lời: "Chúc ngủ ngon. Malaysia ba-bảy-không". Tuy rằng ông đã không nhắc lại tần số liên lạc như mọi lần nhưng lời nhắn được truyền đi lúc này lại không có điểm gì bất thường. Đây chính là đoạn tin nhắn cuối cùng nhận được từ chiếc MH370. Kể từ thời điểm ấy, các phi công không hề xác nhận với trạm kiểm soát không lưu tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng như không hề trả lời bất cứ yêu cầu kết nối nào sau đó.
Các hệ thông radar sơ cấp chỉ đơn thuần dựa vào tín hiệu thô phản chiếu từ vật thể bay trên trời. Song các hệ thống kiểm soát không lưu hiện nay đều đang sử dụng radar thứ cấp. Loại radar này theo dõi vật thể nhờ vào những tín hiệu được gửi về từ máy bay, bởi vậy nó chứa nhiều thông tin hơn, bao gồm nhận dạng về máy bay, độ cao hiện tại… Chỉ năm giây sau khi chiếc máy bay MH370 tiến vào không phận Việt Nam, tín hiệu phản hồi của nó đã biến mất khỏi màn hình kiểm soát không lưu của Malaysia, 37 giây sau đó nó biến mất hoàn toàn khỏi hệ thống radar thứ cấp. Lúc đó là 1 giờ 21 phút sáng, 39 phút kể từ sau khi MH370 cất cánh. Có lẽ lúc này điều phối viên tại Kuala Lumpur đang phải tập chung điều hành các chuyến bay khác mà không để ý được sự bất thường này. Để rồi khi nhận ra rằng biểu tượng của MH370 đã biến mất, anh lại nghĩ rằng nó đã đi sâu vào quyền kiểm soát của trung tâm đặt tại thành phố Hồ Chí Minh, ra xa khỏi tầm phủ sóng của radar tại Kuala Lumpur.
Chú thích: Trong hàng không dân dụng có hai loại hệ thống radar cơ bản là radar thứ cấp và radar sơ cấp. Radar thứ cấp sẽ chủ động phát tín hiệu hỏi thăm tới các máy bay, khi nhận được tín hiệu yêu cầu, máy bay sẽ phản hồi lại những thông tin cần thiết theo yêu cầu để phục vụ quá trình giám sát điều hành bay -; theo otp.vn
Đồng thời lúc đó, các điều phối viên của Việt Nam đã nhận thấy tín hiệu của chiếc MH370 di chuyển vào không phận của mình, nhưng nó ngay lập tức biến mất khỏi radar. Điều phối viên Việt Nam hẳn là đã không nhớ về việc họ phải ngay lập tức thông báo cho phía Kuala Lumpur nếu có bất kì máy bay nào xác nhận trễ năm phút. Tuy nhiên họ đã cố gắng thực hiện liên lạc với chiếc bay nhưng không hề nhận được bất kì phản hồi nào. Phải mất tận 18 phút kể từ khi chiếc MH370 biến mất khỏi màn hình radar, họ mới nhấc máy lên gọi báo cho Kuala Lumpur. Những gì diễn ra sau đó có thể được diễn ra bằng hai từ: hỗn loạn và bất lực. Đáng nhẽ ra Trung tâm Điều phối cứu hộ hàng không vũ trụ Kuala Lumpur nên được thông báo về sự vụ trong vòng một tiếng kể từ thời điểm mất tích. Nhưng đến tận 2 giờ 30 sáng, trung tâm này vẫn chưa hề hay biết điều gì. Và phải mất tới thêm bốn tiếng đồng hồ nữa thì trạng thái khẩn cấp mới được phát động, đó chính xác vào lúc 6 giờ 32 phút sáng.
Đó cũng là lúc mà đáng nhẽ ra chiếc MH370 đã phải có mặt tại Bắc Kinh. Việc tìm kiếm ban đầu được thực hiện tập trung vào vùng Biển Đông giữa Malaysia và Việt Nam. Đã có 34 tàu và 28 máy bay từ bảy quốc gia khác nhau tham gia vào công cuộc này. Nhưng vẫn không hề có dấu hiệu nào về chiếc MH370. Phải tới tận vài ngày sau, những bản ghi chép bởi hệ thống radar thu được từ những máy tính điều khiển không lưu được xác nhận bởi dữ liệu không quân tuyệt mật của Malaysia đã tiết lộ rằng ngay sau khi MH370 biến mất khỏi hệ thống radar thứ cấp, nó đã quay đầu về phía Tây Nam, băng qua bán đảo Malay và đi vòng qua đảo Penang. Từ đây nó bay theo hướng Tây Bắc lên eo biển Malacca và vượt qua biển Andaman, đây là nơi dấu hiệu về đường bay của MH370 yếu dầu do hệ thống radar bị che khuất. Để hoàn thành quãng đường kể trên, nó phải mất tới một tiếng đồng hồ. Ngay từ đầu, trường hợp của MH370 không hề liên quan tới những vụ không tặc thông thường, cũng không phải là bối cảnh phi công tự sát và càng không phải là một vụ tai nạn giống với bất kì trường hợp này trong quá khứ. MH370 đã dẫn dắt các nhà điều tra đi theo nhiều hướng đi mới chưa từng được khám phá.
Những bí ẩn xoay quanh chiếc MH370 được lấy làm trọng tâm cho nhiều cuộc điều tra sau đó, đồng thời cũng là nguồn gốc của nhiều lời đồn thổi gây sốc. Sự biến mất của chiếc máy bay này đồng thời cũng là sự mất mất của nhiều gia đình trên bốn lục địa. Người ta chẳng thể tin được rằng một cỗ máy tinh vi với các công nghệ hiện đại và hệ thống thông tin liên lạc dự phòng lại có thể biến mất một cách tài tình như vậy. Nó giống như việc dù chúng ta có cố đến đâu cũng không thể xóa vĩnh viễn một email ra khỏi mạng internet. Ngay từ đầu, chiếc MH370 đã được thiết kế để người ta có thể truy cập vào nó bất cứ khi nào. Chính sự biến mất tài tính ấy đã tạo ra làn sóng suy luận mà đa phần trong số ấy là vô lí, chúng xoay quanh sự thật rằng trong thời đại hiện nay, không một chiếc máy bay thương mại nào có thể biến mất mà không để lại bất kì dấu vết gì.
Nhưng sự thật ấy dường như không áp dụng với chiếc MH370, nơi nó nằm lại hiện vẫn còn là một ẩn số. Dẫu vậy, nhiều tình tiết xoay quanh vụ việc mất tích này đã dần được hé lộ và đủ cho chúng ta có thể vẽ lại được những gì đã xảy ra vào đêm hôm ấy. Những bản ghi âm buồng lái có thể sẽ không bao giờ được khôi phục, cũng như những điều chúng ta cần biết sẽ không phải tới từ hộp đen của chiếc máy bay, mà chính là từ phía giới chức Malaysia.
2. Người đãi cát biển tìm… máy bay
Vào cái đêm chiếc MH370 mất tích, một người đang ông trung niên tên là Blaine Gibson đang ngồi trong trong nhà của người mẹ quá cố của ông tại Carmel, California, bận rộn với những sắp xếp cần thiết cho việc bán tài sản. Đó cũng là lúc ông nghe được tin tức về chiếc MH370 trên đài CNN.
Gibson đã tốt nghiệp chuyên ngành luật sư. Ông đã sống tại Seattle trong 35 năm của cuộc đời mình. Cha ông, người đã mất từ nhiều năm trước, là một cựu chiến binh từ Thế chiến thứ nhất. Với những đóng góp của mình, ông đã nhận được Huân chương Ngôi sao bạc vì lòng dũng cảm, 24 năm sau đó ông đảm nhận chức vụ chánh án tại California. Còn mẹ của Gibson là một nhà hoạt động vì môi trường đã tốt nghiệp trường Luật Stanford.
Gibson là con một. Mẹ ông là một người thích du lịch khắp thế giới và cũng là người mang ông đi cùng trong những chuyến khám phá của mình. Năm 7 tuổi, Gibson đã tự đặt ra mục tiêu của đời mình là sẽ tới thăm tất cả quốc gia trên thế giới ít nhất một lần. Mục tiêu này đồng nghĩa với nhiều trở ngại, song ông không hề từ bỏ sứ mệnh này bất chấp sự thật rằng mình sẽ không thể có một công việc ổn định nào và chỉ sinh sống với một khoản tiền nho nhỏ. Ông kể rằng mình đã tìm hiểu một vài bí ấn về sự chấm dứt của nền văn minh Maya trong các khu rừng ở Guatemala và Belize; về vụ nổ của thiên thạch Tunguska ở phía Đông Siberia; và về vị trí của Hòm Bia giao ước tại những vùng núi ở Ethiopia. Gibson còn tự in cho mình một tấm thẻ, trên đó ông định nghĩa bản thân là một nhà thám hiểm, một nhà phát kiến, và một người tìm kiếm sự thật. Ông cũng đội một chiếc mũ phớt mềm như nhân vật giả tưởng Indiana Jones vậy. Có lẽ nhờ vậy mà ông đã dành phần lớn sự chú ý của mình tới vụ mất tích của chiếc MH370.
Bất chấp những phủ định từ chính phủ và không quân Malaysia, những sự thực về đường bay mà MH370 đã thực hiện dần được hé lộ. Trong sáu giờ liên tục sau khi biến mất khỏi tầm phủ sóng của hệ thống radar thứ cấp, chiếc máy bay này đã kết nối tới một vệ tinh địa tĩnh ở Ấn Độ Dương do Inmarsat, một nhà cung cấp vệ tinh thương mại có trụ sở tại London, điều hành. Đây là bằng chứng xác nhận rằng vụ việc liên quan tới MH370 không phải là một vụ tai nạn bất ngờ. Người ta đoán rằng trong sáu tiếng ấy, MH370 vẫn duy trì hành trình bay của mình với tốc độ lớn và không độ ổn định.
Bên cạnh đó, những kết nối mà Inmarsat nhận được chỉ là những dấu chấm trên màn hình radar bởi nhiều phần của hệ thống bao gồm hệ thống giải trí cho hành khách, tin nhắn liên lạc từ buồng lái, và cả báo cáo bảo trì tự động đã bị tắt đi. Có tổng số bảy liên kết đã được thực hiện, trong đó có hai liên kết được phát đi tự động bởi máy bay và năm liên kết có nguồn gốc từ trạm mặt đất của Inmarsat. Ngoài ra còn có hai cuộc gọi điện thoại vệ tinh nhưng đều không nhận được hồi âm nhưng chúng cũng cung cấp một số thông tin về chiếc máy bay. Liên quan tới hầu hết những liên kết này là hai giá trị mà Inmarsat mới chỉ bắt đầu ghi lại gần đây.
Giá trị đầu tiên và có độ chính xác cao hơn được gọi là giá trị bù thời gian truyền phát, tôi sẽ gọi đây là giá trị về khoảng cách. Nó là kết quả của phép đo của thời gian truyền tải tín hiệu đến và đi từ chiếc máy bay từ đó ta có thể suy ra được khoảng cách của máy bay cho tới vệ tinh. Tuy rằng nó không thể chỉ ra vị trí chính xác của máy bay nhưng nó có thể cung cấp tập hợp những vị trí có thể của chiếc máy bay dưới dạng một vòng tròn. Sau khi đã có thông tin về phạm vi giới hạn của chiếc MH370, chúng ta có thể rút gọn những vòng tròn trên thành những cánh cung nhỏ hơn.
Hai cánh cung quan trọng nhất chính là cái thứ bảy và cái cuối cùng được xác định bởi liên kết cuối cùng giữa máy bay và vệ tinh có mối quan hệ phức tạp tới việc máy bay hết nhiên liệu và sự dừng hoạt động của động cơ chính. Cánh cung thứ bảy trải dài từ vùng Trung Á tới khu vực lân cận của Nam cực. Đây là giới hạn mà MH370 đã đi qua vào lúc 8 giờ 19 phút sáng theo giờ Kuala Lumpur. Và với những tính toán thì người ta dự đoán rằng điểm cuối cùng của chiếc MH370 có thể là ở Kazakhstan nếu nó quay đầu về hướng Bắc hoặc là ở phía Nam của Ấn Độ Dương nếu nó đang bay hướng về phía Nam.
Từ những phân tích kĩ thuật, người ta đã gần như chắc chắn rằng ở thời điểm ấy MH370 đang hướng về phía Nam. Thông tin này được kết luận nhờ những bằng chứng thu được từ giá trị thứ hai ghi lại bởi Inmarsat, giá trị bù tần số truyền phát. Để đơn giản hóa, tôi sẽ gọi nó là giá trị Doppler bởi vì nó chủ yếu bao gồm một phép đo Doppler về sự thay đổi tần số máy điện đàm do sự di chuyển với vận tốc cao so với vệ tinh, giá trị này là một phần cơ bản của liên lạc vệ tinh trên bất kì chuyến bay nào. Những phép bù trừ Doppler phải được dự đoán và bù đắp bởi các hệ thống trên không nhằm phục phụ việc liên lạc vệ tinh. Song phép bù đắp trên lại không hoàn hảo theo giờ gian, độ chính xác của tín hiệu truyền đi bởi vệ tinh sẽ bị giảm dần so với độ chính xác mà các kĩ sư đã lập trình cho hệ thống trên các máy bay.
Quỹ đạo của những vệ tinh này có thể bị nghiêng nhẹ đi. Tín hiệu cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Những khiếm khuyết này để lại những dấu vết. Mặc dù bản ghi về sự thay đổi phép đo Doppler chưa bao giờ được sử dụng để xác định vị trí của máy bay song đã có một sự thay đổi rõ rệt giúp các kĩ thuật viên của Inmarsat ở London có thể nhận định rằng chiếc máy bay đã quay đầu bay về hướng nam vào lúc 2 giờ 40 phút sáng. Điểm rẽ ở đây là khu vực hơi lệch về phía Bắc và Tây của hòn đảo cực Bắc của Indonesia – Sumatra. Trong một số phân tích rủi ro, người ta đã giả sử rằng MH370 đã bay theo một đường bay thẳng và dài theo hướng về phía Nam cực, cách xa quỹ đạo ban đầu của mình.
Chú thích: Hiệu ứng Dopple là một hiệu ứng vật lí trong đó tần số và bước sóng của các sóng âm, sóng điện từ hay các sóng nói chung bị thay đổi khi nguồn phát sóng chuyển động tương đối với người quan sát – theo Wikipedia.
Sáu giờ sau, theo các tính toán Doppler, chiếc MH370 đã thực hiện giảm độ cao nhanh gấp năm lần so với thông thường. Và chỉ sau một hoặc hai phút tính từ thời điểm đi qua cánh cung thứ bảy nó đã đâm xuống đại dương, rất có thể chiếc máy bay này đã không còn toàn vẹn khi va chạm với mặt nước biển. Từ những bằng chứng về máy móc người ta tin rằng mục đích của phi công lúc đó không phải là cố gắng để hạ cánh khẩn cấp trên mặt nước. Rất có thể MH370 đã ngay lập tức vỡ thành hàng triệu mảnh sau khi va chạm. Chẳng ai lúc đó biết được vị trí va chạm hay thậm chí chẳng ai có một chút bằng chứng vật lí nào để xác nhận rằng những dữ liệu thu được bởi vệ tinh là chính xác.
Chưa đầy một tuần kể từ vụ mất tích, trang báo Wall Street Journal đã đăng tải những bài viết đầu tiên tiết lộ về tín hiệu thu từ vệ tinh, bằng chứng cho thấy rằng chiếc máy bay đã vẫn tiếp tục bay nhiều tiếng đồng hồ kể từ khi nó biến mất. Cuối cùng thì chính quyền Malaysia đã phải ngậm ngùi xác nhận rằng thông tin này hoàn toàn chính xác. Quốc gia này được cho là một trong những quốc gia tham nhũng nhất trong khu vực. Động thái trên đã tiếp tục chứng tỏ được nỗi sợ hãi và tức giận mà Malaysia đang mang trong mình, đồng thời thể hiện sự thiếu tin cậy trong việc điều tra về vụ mất tích của quốc gia này. Nhiều nhà điều tra từ châu Âu, Úc và Mỹ đã bị sốc vì những xáo trộn mà mình đã gặp phải. Bởi người Malaysia đã cố gắng ỉm đi những chứng cứ mà họ biết, cuộc tìm kiếm chiếc MH370 trên Biển Đông đã không thể tìm được bất kì mảnh vỡ nào bởi ngay từ đầu đây không phải là nơi mà chúng ta cần tập chung vào. Nếu lúc đó các nhà chức trách của Malaysia đã trung thực thì rất có thể chúng ta đã xác định được vị trí gần đúng của chiếc máy bay, từ đó thu hồi được những chiếc hộp đen của MH370. Đại dương là một nơi rộng lớn, ngay cả khi chúng ta đã biết được vị trí của chiếc máy bay Air France 447 rơi xuống Đại Tây Dương trên chuyến bay từ Rio de Janeiro đến Paris vào năm 2009, thì công cuộc tìm kiếm chiếc hộp đen của nó vẫn phải mất tới hai năm mới được hoàn thành.
Công cuộc tìm kiếm trên mặt nước đã kết thúc vào tháng 4/2014 sau gần hai tháng nỗ lực vô ích, từ đó trọng tâm được chuyển sang đáy đại dương, nơi có lẽ chiếc MH370 đang nằm lại. Blaine Bibson ngay từ đầu đã theo dõi về những tình tiết đáng thất vọng này. Ông đã bán ngôi nhà của mẹ mình và chuyển đến sống tại vùng Tam Giác Vàng ở miền Bắc của Lào. Đây cũng là nơi ông và đối tác kinh doanh của mình dựng lên một nhà hàng bên bờ sông Mê Kông. Ông cũng đã tham giao vào một nhóm thảo luận về chiếc MH370 trên Facebook. Đây là nơi chứa đựng đầy những suy đoán, suy luận hữu ích về điều gì có thể đã xảy ra với chiếc may bay cùng với vị trí của mảnh vỡ chính.
Dù rằng Malaysia là quốc gia chịu trách nhiệm chính trong việc điều tra nhưng họ không có đủ phương tiện và chuyên môn để thực hiện những nỗ lực tìm kiếm và phục hồi dưới mặt đất. Bởi vậy, Úc đã thay Malaysia chịu trách nhiệm chủ trì. Vùng tìm kiếm dự kiến sẽ là vùng biển Ấn Độ Dương cách thành phố Perth của Úc gần 2.000 km. Đây là vùng biển rất sâu và chưa được khám phá, bởi vậy thử thách đầu tiên cho công tác tìm kiếm chính là phải lập được bản đồ địa hình đáy biển để có đủ thông tin cho phép các phương tiện quét sóng âm có thể hoạt động an toàn dưới mặt nước biển vài kilomet. Đáy biển nơi đây trông giống như một tấm thảm đen khổng lồ, nơi mà ánh sáng mặt trời chưa bao giờ chạm tới.
Gibson bắt đầu suy nghĩ về câu hỏi liệu có khi nào những mảnh vỡ ấy sẽ chỉ đơn giản là trôi dạt vào một bờ biển nào đó, mặc cho bao khó khăn, vất vả của công tác tìm kiếm. Trong nhiều lần đi thăm bạn bè mình ở bờ biển Campuchia, ông đã hỏi bạn bè mình xem có phát hiện thứ gì không, nhưng chưa bao giờ ông nhận được câu trả lời như mong đợi. Chuyện những mảnh vỡ trôi dạt từ vùng biền Ấn Độ Dương để đến với bờ biển của Campuchia là đều không thể. Nhưng Gibson tự nhủ rằng bản thân phải luôn có một tư duy cởi mỏ cho đến khi những mảnh vỡ của chiếc máy bay MH370 được tìm thấy.
Vào tháng 3/2015, lễ tưởng nhớ một năm ngày chiếc MH370 mất tích đã được tổ chức tại Kuala Lumpur bởi thân nhân của những hành khách xấu số ấy. Khi ấy Gibson đã quyết định tham dự bất chấp việc là một người xa lạ và không được mời. Sự có mặt của anh khiến nhiều người khó hiểu. Người ta không biết nên làm gì với một người không liên can như anh. Buổi lễ được tổ chức tại một trung tâm mua sắm, đây cũng là nơi thường xuyên diễn ra các sự kiện tiêu biểu của Kuala Lumpur. Mục đích của buổi lễ tưởng nhớ này là để cùng nhau chia sẻ nỗi đau buồn đồng thời những thân nhân người quá cố còn muốn tạo áp lực lên phía chính phủ Malaysia nhằm yêu cầu họ đưa ra lời giải thích. Đã có hàng trăm người tới để tham gia buổi lễ, phần lớn trong số đó là người Trung Quốc.
Những người tổ chức quyết định đã sử dụng một chút âm nhạc cho buổi lễ, đồng thời sử dụng hình ảnh của một chiếc Boeing 777 cùng những từ như "ở đâu", "ai", "tại sao", "khi nào", "như nào", "bất khả thi", "chưa từng có", "biến mất", và "không hề hay biết". Diễn giả chính của buổi lễ chính là một phụ nữ trẻ tuổi người Malaysia tên là Grace Subathirai Nathan. Cô là một luật sư và có mẹ là một trong những nạn nhân của vụ mất tích. Vai trò của cô trong công việc là bào chữa cho những bị cáo chịu án tử hình, số lượng án tử hình ở nước này không hề thấp do hệ thống luật lệ cực kì hà khắc. Cô bước lên sân khấu, mặc trên mình là chiếc áo thun quá cỡ có in hình chiếc MH370, yêu cầu việc tìm kiếm phải được tiếp tục, rồi sau đó cô miêu tả về mẹ mình, về tình yêu sâu sắc cô dành cho bà cùng những khó khăng trong việc chịu đựng nỗi mất mát này. Thỉnh thoảng cô lặng lẽ khóc, giống như một số khán giả, và cả Gibson. Sau đó anh đến gần Nathan và hỏi cô liệu có chấp nhận một cái ôm từ người lạ không. Cô đồng ý và từ đó họ trở thành những người bạn.
Gibson rời buổi lễ với mong muốn giúp đỡ bằng việc lấp đầy một lỗ hổng trong công tác tìm kiếm: sự thiếu đi hoạt động tìm kiếm các mảnh vỡ gần bờ biển. Đây chính là con đường mà ông muốn hướng tới. Ông sẽ trở thành người "đãi cát biển" để tìm mảnh vỡ chiếc MH370. Trong khi đó nhóm điều tra của người Úc và Malaysia sẽ tập chung vào công tác tìm kiếm đáy biển. Họ sẽ cười vào cái tham vọng của Gibson, cũng như cái khả năng mà ông sẽ tìm được những mảnh vỡ trên các bờ biển cách đó hàng trăm cây số.
Bên trái là Grace Subathirai Nathan, một luật sư và một nhà hoạt động, người có mẹ là nạn nhân trong vụ tai nạn. Bên phải là Blaine Gibson, người đàn ông Mỹ đã thực hiện hành trình tìm kiếm mảnh vỡ máy bay.
(còn tiếp)
Trung ND