Tại sao Triều Tiên bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc?

Bui Nhat Minh
Bui Nhat Minh
Phản hồi: 0

Bui Nhat Minh

Intern Writer
Sự phân chia Bắc và Nam Triều Tiên diễn ra trong bối cảnh địa chính trị hậu Thế chiến II, làm gia tăng sự chia rẽ sâu sắc hình thành từ Chiến tranh Lạnh.

Việc phân chia bán đảo Triều Tiên thành các quốc gia riêng biệt là Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc không phải là điều tất yếu, mà là sản phẩm của địa chính trị toàn cầu và thực tế quân sự vào cuối Thế chiến II. Người dân Triều Tiên từ lâu đã tìm kiếm sự độc lập khỏi sự thống trị của nước ngoài, nhưng thấy giấc mơ về một quốc gia có chủ quyền thống nhất bị trì hoãn bởi sự xuất hiện của Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.

Vì hai siêu cường này không muốn nhượng quyền kiểm soát Triều Tiên cho bên kia nên bán đảo đã bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38, tạo tiền đề cho sự chia cắt cay đắng vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.
Nguồn gốc của sự phân chia
Trong hơn ba thập kỷ trước năm 1945, Hàn Quốc là thuộc địa của Đế quốc Nhật Bản. Khi Nhật Bản đầu hàng các cường quốc Đồng minh vào cuối Thế chiến II, quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ đã tiến vào để chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản và nắm quyền kiểm soát bán đảo. Tuy nhiên, có rất ít kế hoạch trước về tình trạng sau chiến tranh của Hàn Quốc.

1741600362497.png

Hai miền Triều Tiên bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38, hay vĩ độ 38° Bắc.
Tại Hội nghị Yalta vào tháng 2 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đã đề xuất một chế độ ủy thác bốn cường quốc đối với Triều Tiên bao gồm Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô. Stalin đồng ý về nguyên tắc, nhưng không có thỏa thuận chắc chắn nào được đưa ra trước khi Roosevelt qua đời vào tháng 4. Đến Hội nghị Potsdam vào tháng 7 năm 1945, ưu tiên của Hoa Kỳ đã chuyển sang khuyến khích Liên Xô tham gia vào cuộc chiến chống Nhật Bản để đẩy nhanh kết thúc của cuộc chiến.

Để tạo điều kiện cho Nhật Bản đầu hàng tại Hàn Quốc, bán đảo đã bị chia cắt dọc theo vĩ tuyến 38 vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, với lực lượng Liên Xô chấp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản ở phía bắc đường ranh giới và lực lượng Hoa Kỳ cũng làm như vậy ở phía nam. Sự phân chia quân sự tạm thời này được cho là tạm thời, nhưng nó nhanh chóng trở thành một sự phân chia chính trị.

Các chế độ riêng biệt xuất hiện​

1741600414431.png

Khi các hệ tư tưởng đối lập của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản tự do phương Tây lan rộng, sự chia rẽ về hệ tư tưởng cũng lan rộng.
Ở cả hai vùng chiếm đóng phía bắc và phía nam, tình trạng hỗn loạn và hỗn loạn chính trị lan tràn sau sự cai trị của Nhật Bản. Các nhóm ý thức hệ khác nhau tranh giành quyền kiểm soát và ảnh hưởng. Ở phía nam, chính quyền quân sự Hoa Kỳ từ chối công nhận Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, vốn đã được tuyên bố vội vàng vào tháng 9 năm 1945. Chính phủ lâm thời lưu vong trở về buộc phải tổ chức lại thành một đảng chính trị, thay vì một chính phủ.

Ở phía bắc, Liên Xô đã tích cực cho phép những người cộng sản Triều Tiên từng tham gia kháng chiến chống Nhật Bản nắm quyền kiểm soát bộ máy hành chính ở cấp tỉnh và cuối cùng là cấp quốc gia. Đến đầu năm 1946, một chính quyền trung ương cộng sản trên thực tế do Kim Il-Sung đứng đầu đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Liên Xô.

Những nỗ lực thành lập một chính quyền thống nhất của Hàn Quốc dưới sự ủy thác tạm thời của Hoa Kỳ và Liên Xô đã thất bại. Vào tháng 9 năm 1947, không có tiến triển nào trong việc thống nhất, Hoa Kỳ đã đưa vấn đề này lên Liên hợp quốc mới thành lập, nơi đã thông qua một nghị quyết kêu gọi bầu cử quốc gia do Liên hợp quốc giám sát tại Hàn Quốc.
1741600458432.png

Hàn Quốc đã trở thành bàn cờ cho chính trị Chiến tranh Lạnh diễn ra.
Tuy nhiên, Liên Xô đã từ chối cho phép ủy ban Liên Hợp Quốc hoạt động ở miền Bắc, trong khi cuộc bầu cử vẫn diễn ra ở miền Nam vào tháng 5 năm 1948. Điều này dẫn đến việc thành lập Cộng hòa Hàn Quốc (Hàn Quốc) dưới thời Syngman Rhee vào tháng 8 năm 1948. Vài tuần sau, miền Bắc cũng làm theo bằng cách tuyên bố mình là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) dưới thời Kim Il-Sung. Đến năm 1949, với sự rút lui của lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ và Liên Xô, Triều Tiên đã bị chia cắt thành hai quốc gia riêng biệt, thù địch và quân sự hóa mạnh mẽ.

Chiến tranh Triều Tiên​

Căng thẳng giữa hai chế độ Triều Tiên leo thang nhanh chóng, được thúc đẩy bởi sự cạnh tranh giữa các lĩnh vực của Hoa Kỳ và Liên Xô trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh. Vào ngày 25 tháng 6 năm 1950, các lực lượng Bắc Triều Tiên đã tấn công Hàn Quốc, gây ra một cuộc xung đột tàn khốc kéo dài ba năm trên bán đảo được gọi là Chiến tranh Triều Tiên.
Hoa Kỳ đã can thiệp quyết liệt thay mặt cho Hàn Quốc theo lệnh của Liên Hợp Quốc chống lại những gì họ coi là hành động xâm lược do Liên Xô hậu thuẫn. Đây là trận chiến lớn đầu tiên của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Sau khi ban đầu bị đẩy lùi về một vành đai phòng thủ nhỏ xung quanh Busan, lực lượng Liên Hợp Quốc do Hoa Kỳ chỉ huy đã tiến hành một cuộc đổ bộ táo bạo tại Incheon vào tháng 9 năm 1950, làm thay đổi cục diện của cuộc chiến.

Tuy nhiên, khi quân đội Liên Hợp Quốc tiến về phía bắc hướng tới biên giới Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tham chiến để ủng hộ Bắc Triều Tiên, buộc lực lượng Liên Hợp Quốc phải rút lui hàng loạt. Trong hai năm tiếp theo, cuộc chiến đã đi đến bế tắc đẫm máu gần đường phân chia ban đầu tại vĩ tuyến 38. Một hiệp định đình chiến được ký vào tháng 7 năm 1953 đã thiết lập một vùng đệm phi quân sự và lệnh ngừng bắn, nhưng không có giải pháp hòa bình lâu dài.
1741600526872.png

Cuộc chiến vẫn là một phần khó hiểu và đau đớn trong ký ức của công chúng.
Chiến tranh Triều Tiên kết thúc với thương vong khủng khiếp lên đến khoảng 4 triệu người, và củng cố sự chia cắt Triều Tiên thành hai quốc gia đối địch không thể hòa giải. Hai chính phủ đối địch ở Bình Nhưỡng và Seoul tự coi mình là chính quyền hợp pháp duy nhất trên toàn bộ bán đảo, dập tắt mọi hy vọng thống nhất.

Sự rạn nứt của Chiến tranh Lạnh làm sâu sắc thêm sự chia rẽ​

Trong những thập kỷ sau Chiến tranh Triều Tiên, sự chia cắt bán đảo trở nên cứng rắn hơn khi các hệ thống chính trị và kinh tế khác nhau của hai miền Triều Tiên được củng cố. Hàn Quốc dần chuyển sang nền dân chủ tư bản và công nghiệp hóa nhanh chóng với sự hỗ trợ kinh tế và quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ, trở thành một quốc gia thịnh vượng và là đồng minh trung thành của Hoa Kỳ.
Ngược lại, Bắc Triều Tiên vẫn làkém phát triển kinh tế do bị cô lập ,cấm vận. Nền kinh tế trì trệ và vẫn phụ thuộc nhiều vào viện trợ và hỗ trợ từ Liên Xô, và sau đó là Trung Quốc. Sự sụp đổ của Liên Xô vào những năm 1990 đã đẩy Bắc Triều Tiên vào nạn đói thảm khốc.

Mặc dù thỉnh thoảng có thảo luận về khả năng thống nhất giữa hai miền Triều Tiên, nhưng hố sâu ngăn cách về mặt ý thức hệ và mối quan hệ đối kháng giữa miền Nam tư bản và miền Bắc cộng sản đã chứng minh là quá rộng để có thể thu hẹp. Các điểm nóng chính bao gồm việc Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân, vi phạm các thỏa thuận quốc tế, cũng như các giai đoạn căng thẳng quân sự gia tăng.
1741600601587.png

Hoa Kỳ có một đài tưởng niệm chiến tranh dành cho các cựu chiến binh của cuộc chiến này.
Thiệt hại tàn khốc của Chiến tranh Triều Tiên đã phá hủy mọi triển vọng thống nhất hòa bình trong tương lai gần và đảm bảo rằng ranh giới đình chiến năm 1953 sẽ trở thành biên giới kiên cố giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc trong tương lai gần. Mặc dù lý do chia cắt ban đầu không còn đúng nữa, nhưng cuộc đối đầu đang diễn ra giữa hai miền Triều Tiên và hệ thống chính trị và kinh tế khác biệt đáng kể của họ có nghĩa là chi phí thống nhất vẫn còn quá cao.

Sự chia cắt dai dẳng của người dân Triều Tiên thành hai quốc gia vẫn là một trong những di sản địa chính trị bi thảm và dai dẳng nhất của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Liệu giấc mơ về một Triều Tiên thống nhất, hòa bình và thịnh vượng có bao giờ trở thành hiện thực hay không vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ trong lịch sử phức tạp của sự thống trị của nước ngoài và sự chia rẽ ý thức hệ đầy căng thẳng của bán đảo.
t/h
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Thành viên mới đăng
Top