Việc Chính phủ thông tin sắp tới chỉ trường Y mới được đào tạo bác sĩ, luật mới được đào tạo luật sư được dư luận rất đồng tình ủng hộ. Trong đó, tôi thấy có một số ý kiến quy định này nên áp dụng với cả lĩnh vực công nghệ thông tin! Có thể do họ thấy nơi nơi đào tạo công nghệ thông tin, trường nào hot cũng mở lĩnh vực đào tạo này cả, chất lượng chẳng biết thế nào mà lần
.
Tôi cho rằng ý tưởng giao quyền đào tạo CNTT cho một nhóm trường chuyên biệt nghe có vẻ hợp lý, vì công nghệ mà dốt thì chẳng làm được trò trống gì, vừa tốn kém gia đình vừa lãng phí cho xã hội. Nhưng CNTT có bản chất rất khác hai lĩnh vực đó nên nếu bó hẹp lại sẽ tạo ra nhiều hệ quả không mong muốn.
CNTT không phải ngành nghề có một chuẩn hành nghề thống nhất giống như bác sĩ hay luật sư. Y khoa đòi hỏi quy trình thực hành nghiêm ngặt, đào tạo kéo dài và phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sức khỏe con người. Luật lại liên quan đến hệ thống pháp lý, yêu cầu chứng chỉ hành nghề do Nhà nước quy định. CNTT linh hoạt hơn rất nhiều. Người làm sản phẩm phần mềm ở ngân hàng, logistics, thương mại điện tử hay nghiên cứu thuần túy đều cần nền tảng khác nhau. Nếu chỉ cho một vài trường công nghệ được đào tạo thì nhiều lĩnh vực liên quan sẽ bị hụt nguồn nhân lực vì họ cần kiểu kỹ năng riêng gắn với chính ngữ cảnh của họ.
Thực tế việc nhiều trường ngoại thương, tài chính, kinh tế mở ngành CNTT hay khoa học dữ liệu cũng phản ánh nhu cầu thị trường. Một sinh viên kinh tế học lập trình để làm phân tích dữ liệu trong tài chính là hoàn toàn hợp lý. Còn sinh viên trường thương mại muốn học về hệ thống thông tin để làm quản trị sản phẩm cũng hợp lý không kém. Những ngành này không nhằm đào tạo kỹ sư phần mềm thuần túy mà tạo ra nhân sự lai giữa chuyên môn ngành mẹ và kỹ năng công nghệ. Hạn chế đào tạo như vậy có nghĩa cắt đứt sự giao thoa vốn đang trở thành động lực phát triển của kinh tế số.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là ủng hộ việc đào tạo tràn lan. Điều cần siết không phải quyền mở ngành mà là chất lượng và chuẩn đầu ra. Nếu trường nào cũng mở nhưng không có đội ngũ giảng viên có trình độ, không đầu tư phòng lab, không đảm bảo chuẩn tối thiểu thì là một sự lãng phí lớn cho cả gia đình và xã hội. Không thể so sánh với ngành y hay luật được độc quyền đào tạo một phần vì trách nhiệm xã hội quá lớn.
Nói chung không nên giới hạn CNTT thành đặc quyền của các trường công nghệ. Hợp lý hơn là yêu cầu mọi trường khi mở ngành phải chứng minh năng lực thật, giữ chất lượng đào tạo đúng chuẩn và phân rõ chương trình nào đào tạo kỹ sư và chương trình nào đào tạo nhân sự công nghệ trong lĩnh vực chuyên ngành của họ. Khi đó thị trường được hưởng lợi và sinh viên cũng có nhiều lựa chọn phù hợp hơn.
Tôi cho rằng ý tưởng giao quyền đào tạo CNTT cho một nhóm trường chuyên biệt nghe có vẻ hợp lý, vì công nghệ mà dốt thì chẳng làm được trò trống gì, vừa tốn kém gia đình vừa lãng phí cho xã hội. Nhưng CNTT có bản chất rất khác hai lĩnh vực đó nên nếu bó hẹp lại sẽ tạo ra nhiều hệ quả không mong muốn.
CNTT không phải ngành nghề có một chuẩn hành nghề thống nhất giống như bác sĩ hay luật sư. Y khoa đòi hỏi quy trình thực hành nghiêm ngặt, đào tạo kéo dài và phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sức khỏe con người. Luật lại liên quan đến hệ thống pháp lý, yêu cầu chứng chỉ hành nghề do Nhà nước quy định. CNTT linh hoạt hơn rất nhiều. Người làm sản phẩm phần mềm ở ngân hàng, logistics, thương mại điện tử hay nghiên cứu thuần túy đều cần nền tảng khác nhau. Nếu chỉ cho một vài trường công nghệ được đào tạo thì nhiều lĩnh vực liên quan sẽ bị hụt nguồn nhân lực vì họ cần kiểu kỹ năng riêng gắn với chính ngữ cảnh của họ.
Thực tế việc nhiều trường ngoại thương, tài chính, kinh tế mở ngành CNTT hay khoa học dữ liệu cũng phản ánh nhu cầu thị trường. Một sinh viên kinh tế học lập trình để làm phân tích dữ liệu trong tài chính là hoàn toàn hợp lý. Còn sinh viên trường thương mại muốn học về hệ thống thông tin để làm quản trị sản phẩm cũng hợp lý không kém. Những ngành này không nhằm đào tạo kỹ sư phần mềm thuần túy mà tạo ra nhân sự lai giữa chuyên môn ngành mẹ và kỹ năng công nghệ. Hạn chế đào tạo như vậy có nghĩa cắt đứt sự giao thoa vốn đang trở thành động lực phát triển của kinh tế số.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là ủng hộ việc đào tạo tràn lan. Điều cần siết không phải quyền mở ngành mà là chất lượng và chuẩn đầu ra. Nếu trường nào cũng mở nhưng không có đội ngũ giảng viên có trình độ, không đầu tư phòng lab, không đảm bảo chuẩn tối thiểu thì là một sự lãng phí lớn cho cả gia đình và xã hội. Không thể so sánh với ngành y hay luật được độc quyền đào tạo một phần vì trách nhiệm xã hội quá lớn.
Nói chung không nên giới hạn CNTT thành đặc quyền của các trường công nghệ. Hợp lý hơn là yêu cầu mọi trường khi mở ngành phải chứng minh năng lực thật, giữ chất lượng đào tạo đúng chuẩn và phân rõ chương trình nào đào tạo kỹ sư và chương trình nào đào tạo nhân sự công nghệ trong lĩnh vực chuyên ngành của họ. Khi đó thị trường được hưởng lợi và sinh viên cũng có nhiều lựa chọn phù hợp hơn.