The Storm Riders
Writer
Hội đồng quản trị của Intel đã và đang đưa ra những quyết định tồi tệ trong nhiều thập kỷ, điều này đẩy Intel đến bờ vực sụp đổ. Quyết định sa thải Pat Gelsinger, bổ nhiệm một CFO + trưởng bộ phận bán hàng và tiếp thị, đồng thời cắt giảm chi tiêu cho nhà máy sản xuất chip để tập trung trở lại vào x86, đều là ví dụ về sự kém cỏi. Bài viết "Cái chết của Intel: Khi hội đồng quản trị thất bại" của Fabricated Knowledge đã giải thích việc HĐQT yếu kém về lãnh đạo và lập kế hoạch đã khiến công ty thất bại như thế nào. Nói một cách đơn giản, HĐQT Intel đã trốn tránh trách nhiệm trong hơn một thập kỷ thất bại, đỉnh điểm là sai lầm cuối cùng: sa thải CEO Pat Gelsinger.
Nhìn kỹ hơn, những thất bại này không có gì đáng ngạc nhiên. 7 trong số 11 thành viên HĐQT không có kinh nghiệm liên quan đến bán dẫn. Hai thành viên khác có thành tích trong lĩnh vực này nhưng lại là học giả, không phải người trong ngành. Họ không có kinh nghiệm đưa ra quyết định khó khăn, hiểu được những bước ngoặt quan trọng trong kinh doanh và không đủ năng lực cho những gì đang bị đe dọa. Thành viên duy nhất có CV mạnh và phù hợp, Stacy J. Smith, mới gia nhập năm nay để thay thế Lip-Bu Tan.
Thập kỷ qua là giai đoạn tồi tệ nhất lịch sử Intel với phần lớn thiệt hại xảy ra trong những năm 2010. Pat Gelsinger đã dành vài năm qua để khắc phục nhưng việc xoay chuyển một "con tàu Titanic" không phải nhiệm vụ dễ dàng. Có một hằng số trong sự sụp đổ của Intel: 7 thành viên HĐQT vẫn còn tại vị cho đến ngày nay. Hãy so sánh sơ yếu lý lịch của HĐQT đã sa thải Gelsinger với sơ yếu lý lịch của ông ấy: bạn sẽ chọn ai để giải cứu Intel?
Thật khó để tìm được người phù hợp với công việc này hơn Gelsinger. Đáng tiếc, HĐQT đã mất can đảm trước bình minh sự xoay chuyển của Gelsinger. Bán dẫn là một trong những ngành công nghiệp phức tạp nhất và phải mất nhiều năm để điều chỉnh hướng đi. Trong cuộc họp HĐQT cuối cùng của mình, Gelsinger đã trình bày một kế hoạch chi tiêu vốn cập nhật mới. Kế hoạch là duy trì chi tiêu đáng kể cho Intel Foundry Services nhưng HĐQT đã không hài lòng với kế hoạch này đến mức ép buộc ông phải rời đi.
Gelsinger chắc chắn có thể làm tốt hơn với tư cách 1 CEO. Ông có phần lạc quan một cách phi lý nhưng đó là những gì Intel cần. Ông ấy đã có những sai lầm như chiến lược AI hiện tại vẫn còn thiếu sót với Gaudi 3 và Falcon Shores, có nghĩa Intel không bao giờ có được nhiều thị phần chip logic hoặc đào tạo GenAI. Sự mục nát về văn hóa chủ yếu xoay quanh các vấn đề 10nm về cơ bản đã được khắc phục từ góc độ kỹ thuật, nhưng khách hàng bên ngoài không được phục vụ một cách thích hợp. Việc mua lại Tower Semiconductor sẽ mang lại chuyên môn cần thiết cho khách hàng, nhưng sau khi thỏa thuận bị phá vỡ do các cơ quan quản lý, họ không có kế hoạch B. Intel có tiếng là khó làm việc cùng và không có quan điểm lấy khách hàng làm trung tâm; trong khi đó, TSMC thậm chí còn ngần ngại tăng giá đối với khách hàng - không có gì ngạc nhiên khi ai là người chiến thắng.
Tuy nhiên, Gelsinger là 1 ứng cử viên đủ tiêu chuẩn và muốn làm công việc này. Về mặt đó, có lẽ ông ấy là độc nhất vô nhị. Ngày nay, hội đồng quản trị có nhiều lựa chọn tồi tệ hơn.
Các vấn đề tại Intel bắt đầu với nút 10nm (có thể cho là 14nm). Vào năm 2016, TSMC và Intel đã lên kế hoạch đưa quy trình 10nm của họ vào sản xuất hàng loạt. Trong khi TSMC thực hiện đúng tiến độ với một node có hiệu suất thấp hơn, Intel đã thúc đẩy việc thu nhỏ mạnh mẽ yêu cầu tạo mẫu 4 lần, các kết nối Cobalt mới và tiếp xúc trên cổng hoạt động. Sản lượng kém và node đã mất ba năm để sửa chữa. Vào thời điểm Intel xuất xưởng các sản phẩm 10nm với số lượng lớn, TSMC đã bán được hơn nửa triệu wafer N7 và đang lấy mẫu N5.
Sau đó, các sản phẩm của Intel bị ảnh hưởng do công nghệ quy trình trì trệ. Các đối thủ cạnh tranh như AMD có lợi thế về chế tạo của TSMC và trong nhiều trường hợp là thiết kế/kiến trúc chip tốt hơn. Thị phần trung tâm dữ liệu bắt đầu giảm sút và các vấn đề kinh doanh của Intel cứ thế chồng chất.
Đó là một phần dễ hiểu trong lịch sử của Intel. Tuy nhiên, vì một số lý do, sự kém cỏi và các quyết định lãnh đạo của hội đồng quản trị thường không phải là một phần của câu chuyện. Sự sụp đổ thực sự của một trong những công ty vĩ đại nhất từ trước đến nay đã bắt đầu hơn một thập kỷ trước đó, và nó bắt đầu với việc Intel không còn là Intel về mặt văn hóa.
Câu chuyện về sự mục nát văn hóa của Intel bắt nguồn từ Paul Otellini. Paul và Pat Gelsinger là những người dẫn đầu cho vị trí CEO. Đây là lựa chọn lãnh đạo kinh điển của doanh nhân so với nhà công nghệ. Kết quả là Intel đã chọn CEO phi kỹ sư đầu tiên của mình.
Paul cuối cùng đã được chọn do các quyết định kinh doanh tàn nhẫn, loại AMD ra khỏi thị trường CPU và củng cố vai trò của Intel với tư cách là công ty độc quyền trong hơn một thập kỷ. Paul đã lập ra một chính sách liên quan đến việc trả tiền cho các OEM và đơn vị tích hợp hệ thống khác nhau để không sử dụng AMD, điều này đã làm giảm doanh thu, R&D và đầu tư vào fab của AMD. Chỉ riêng Dell đã được trả ~ 4,3 tỷ USD và đây là lý do duy nhất khiến Dell có lãi trong giai đoạn này. Intel và EU vẫn đang đấu tranh với hành vi phản cạnh tranh này tại tòa án cho đến ngày nay.
Kể từ đó, các quyết định kinh doanh chiếm ưu thế hơn công nghệ. Những người cũ của Intel tin rằng Paul là lý do tại sao tổ chức trở thành một địa ngục chính trị. Trước Paul, Intel có văn hóa "đối đầu mang tính xây dựng", ra quyết định dựa trên dữ liệu, tập trung cao độ vào việc thực hiện và trách nhiệm giải trình cao của Andy Grove. Có rất nhiều cuốn sách hay về nó, nhưng hãy nghe một cựu chiến binh Intel hồi tưởng, họ sẽ cho bạn biết mọi người luôn có số liệu để chứng minh quan điểm của mình và thường xuyên la hét vào nhau trong quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, con đường đã được chọn, công ty đã thống nhất và tiến lên phía trước. Intel khi đó là một đoàn tàu chở hàng không thể ngăn cản.
Intel đã có một cách khắc nghiệt để hoàn thành công việc, nhưng đó là một nền văn hóa hiệu quả. Paul Otellini đã thay đổi điều này. Các quyết định kỹ thuật bị gạt sang một bên vì quyền lực chính trị, con đường phía trước trong công ty là thông qua các cuộc đấu tranh quyền lực giữa các lãnh địa khác nhau. Sự mục nát văn hóa này bắt đầu dưới thời Paul Otellini và tiếp tục suy tàn cho đến khi Pat Gelsinger đến.
Bên cạnh việc thay đổi văn hóa, còn có rất nhiều quyết định tồi tệ mà hội đồng quản trị đã thông qua, chẳng hạn thực hiện một loạt vụ mua lại ngớ ngẩn, mua các công ty hoàn toàn không liên quan như McAfee và thậm chí không cố gắng giành được hợp đồng iPhone mặc dù đã được đề nghị. Những thất bại khi thâm nhập vào thiết bị di động và sự trỗi dậy của Arm là quyết định sẽ ám ảnh Intel mãi mãi. Người kế nhiệm của Paul còn tệ hơn.
Brian Krzanich là một thảm họa với tư cách là CEO. Ông chủ trì thảm họa 10nm. Sự quản lý yếu kém các nhà máy sản xuất chip này là vấn đề lớn nhất mà công ty phải đối mặt, bởi vì đó là cốt lõi của Intel. Mặc dù vậy, Krzanich chỉ bị sa thải khi mối quan hệ bất chính tại nơi làm việc bị đưa ra ánh sáng. HĐQT đề cử ông bao gồm John Donahoe — CEO đã khiến Nike trở nên kém hấp dẫn — cùng với chủ tịch tương lai Frank Yeary. Có thể viết sách về những thất bại của Brian với tư cách là một nhà lãnh đạo, những vụ mua lại tồi tệ, những thất bại trong AI và sự lãnh đạo kỹ thuật mục ná. Nhưng thực tế, ông ấy chỉ là sản phẩm phụ của nền văn hóa độc hại. Có lẽ được coi là CEO tồi tệ nhất từ trước đến nay của Intel.
Không chịu thua kém, HĐQT năm 2018 đã thay thế Krzanich bằng CEO phi kỹ thuật thực sự đầu tiên trong lịch sử của Intel: Bob Swan. Về mặt kỹ thuật, Paul Otellini là CEO phi kỹ sư đầu tiên lãnh đạo Intel, nhưng ông đã có hơn 30 năm làm việc tại công ty, bao gồm thời gian làm cố vấn kỹ thuật cho Andy Grove huyền thoại và lãnh đạo bộ phận vi xử lý.
Swan là một CFO chuyên nghiệp - Intel là vị trí CFO thứ 10 của ông - do đó, kỹ thuật quy trình đã được ưu tiên hơn kỹ thuật tài chính. Intel của Swan đã chi tiêu cho việc mua lại cổ phiếu nhiều như chi tiêu vốn cho các nhà máy sản xuất chip trong nhiệm kỳ của ông: hơn 36 tỷ USD cho việc mua lại so với 38 tỷ USD cho Capex. Đây là hành vi sai trái trong một ngành công nghiệp thâm dụng vốn khi công ty đang mất thị phần và tụt hậu hơn hai node bán dẫn so với đối thủ cạnh tranh chính.
Brian Krzanich, Bob Swan và HĐQT Intel không chỉ cắt giảm Capex mà còn cắt giảm hàng loạt nhân tài kỹ thuật. Từ năm 2013 đến năm 2020, 4 trong số 7 năm có lượng nhân viên bị thu hẹp trong khi doanh nghiệp mất đi vị trí dẫn đầu về kỹ thuật và có lợi nhuận tuyệt vời. Con mắt nhàn rỗi, phi kỹ thuật của họ đã dẫn đến sự kém cỏi về kỹ thuật và các chính trị gia như Navin Shenoy, Murthy Renduchintala, Aicha Evans, Remi El-Ouazzane và nhiều người khác đã đưa ra những quyết định tồi tệ trong toàn tổ chức. Đây chỉ là một danh sách rút gọn. Pat Gelsinger là phương thuốc chữa bệnh đã dọn sạch nhiều lãnh địa và sự kém cỏi của những người quản lý này.
Còn những giám đốc đã thúc đẩy hành vi này thì sao? Năm trong số mười thành viên đó trong HĐQT vừa sa thải Pat Gelsinger. Sau khi sa thải, chủ tịch Frank Yeary đã tuyên bố trong một thông cáo báo chí rằng “với tư cách là hội đồng quản trị, trước hết và trên hết, chúng tôi biết rằng chúng tôi phải đặt nhóm sản phẩm của mình làm trung tâm cho mọi việc chúng tôi làm.”
Đây là một chiến lược lạc hậu sẽ không cứu được Intel. Có vẻ HĐQT đang mắc thêm sai lầm thiển cận nữa. Michelle là cựu giám đốc tiếp thị bán hàng và truyền thông và giám đốc doanh thu, còn Zinsner gia nhập vào năm 2022. Intel cần sự lãnh đạo vào thời điểm quan trọng này, và đây không phải là đồng CEO cho công việc này. Đọc một số công việc của Michelle với sự mất kết nối với thực tế, kinh doanh và chiến lược tiếp thị bên dưới:
Thời kỳ hoàng kim của Intel là khi họ có công nghệ quy trình vượt trội kết hợp với lợi thế x86 của họ. Lợi thế x86 cũng bao gồm hai phần: Intel có lợi thế trong x86 và x86 có lợi thế trong điện toán. Ngày nay, cả hai lợi thế đó đều không còn.
Trước kỷ nguyên điện thoại thông minh, x86 là tập lệnh thống trị trong CPU đa năng. Hầu như mọi PC và máy chủ đều được đảm bảo có CPU dựa trên x86 vì phần mềm được viết để tương thích với tập lệnh x86. Điều này được lan truyền bởi liên minh “Wintel” (Windows và Intel), trong đó Windows là Hệ điều hành thống trị chạy độc quyền trên x86. Các nhà phát triển phần mềm sẽ tập trung nỗ lực vào việc phát triển phần mềm cho cơ sở người dùng lớn nhất: Windows và điều đó có nghĩa là tạo phần mềm cho x86. Đây là một hệ sinh thái cổ điển: khách hàng sẽ muốn có PC chạy Windows vì có nhiều tùy chọn phần mềm hơn và để sử dụng Windows có nghĩa là mua CPU dựa trên x86.
Hầu hết các CPU x86 đó là CPU Intel. Trong khi AMD cũng có quyền IP để thiết kế CPU dựa trên x86, thì AMD trong một thời gian dài bị ràng buộc với các nhà máy sản xuất chip (nay được tách ra thành Global Foundries) với quy trình kém hơn so với Intel, khiến nó không cạnh tranh được. Trớ trêu thay, đây là vị trí của Intel ngày nay. Những thất bại của Intel trong các nhà máy sản xuất chip và bước tiến không ngừng của TSMC đã cho phép AMD tận dụng kiến trúc và công nghệ quy trình vượt trội của mình để cuối cùng chống trả.
Một CPU dựa trên một kiến trúc khác có rất ít cơ hội nếu không được hỗ trợ về hệ điều hành và phần mềm, nếu không có sự thay đổi nền tảng. Sự thay đổi nền tảng này chính xác là những gì đã xảy ra trong kỷ nguyên smartphone. Mô hình smartphone nghĩa là hệ sinh thái phần mềm mới xuất hiện dưới dạng iOS và Android với các bộ ứng dụng mới, có nghĩa lợi thế kế thừa của x86 trong máy tính cá nhân không được chuyển sang điện thoại thông minh.
Mặc dù Intel đã nỗ lực trong bộ xư lý điện thoại thông minh nhưng đã quá muộn, nửa vời và với chiến lược sai lầm của tư duy PC. Họ không hiểu làm thế nào để đổi mới ngoài "con ngỗng vàng" của mình. Điều quan trọng, hiệu quả năng lượng quan trọng hơn nhiều đối với smartphone do hạn chế về pin (ít vấn đề hơn nhiều đối với PC), đây là nơi Intel thua các SoC smartphone dựa trên ARM khác.
Điều này bắt đầu làm mờ đi sự liên quan của Windows và Intel, được thay thế bằng kỷ nguyên Apple và Arm. Quan hệ đối tác này đã xâm phạm vào cốt lõi của Intel: Apple đã lấy kiến thức và kinh nghiệm từ việc thiết kế AP với SoC iPhone dòng A, biến nó thành SoC dòng M cực kỳ thành công cho máy tính vào năm 2020. 15 năm sau khi không chịu nổi sự thống trị của x86 so với IBM PowerPC, Apple đã chấm dứt quan hệ đối tác với Intel.
Sự chuyển đổi này chỉ được thực hiện nhờ nỗ lực to lớn để chuyển phần mềm được viết cho x86 sang Arm. Mảnh ghép quan trọng là trình giả lập Rosetta 2, biên dịch lại các ứng dụng khi cài đặt để hoạt động với silicon của Apple, cho phép chuyển đổi liền mạch. Apple M1 đã mở ra những cải tiến đáng kể về hiệu suất với các công cụ tăng tốc khác mà Intel không cung cấp, cùng với việc tăng đáng kể thời lượng pin. Đó là một cú huých. Đối với Apple, điều này có nghĩa hiệu suất cao hơn và tỷ suất lợi nhuận tốt hơn. Trong khi Lunar Lake mới của Intel bắt kịp sự cạnh tranh về bộ tăng tốc và thời lượng pin thì đã quá muộn; con tàu đã ra khơi.
Khóa phần mềm x86 đang bị phá vỡ. Điều này đã truyền cảm hứng cho các nhà sản xuất chip khác tấn công thị trường CPU máy khách trưởng thành nhưng béo bở bằng cách sử dụng ISA dựa trên Arm mở (đi kèm một mức giá). Ngay cả Microsoft của liên minh Wintel cũ cũng đã phản hồi bằng cách tung ra Windows cho Arm, hoàn thiện hệ sinh thái không phải x86.
Qualcomm đã phát hành Snapdragon X cho PC Windows vào năm 2024 và sẽ có nhiều người tham gia hơn. Nvidia và MediaTek đều đang độc lập nghiên cứu chip PC máy khách Arm. AMD dù được hưởng lợi từ hệ sinh thái x86, nhưng cũng đang phát triển CPU dựa trên Arm cho Microsoft dưới dạng chip bán tùy chỉnh.
Đúng vậy, Arm cho PC vẫn còn nhiều khó khăn cần giải quyết, vì vậy Snapdragon X của Qualcomm chưa chiếm được nhiều thị phần. Song, Arm cho PC chắc chắn xảy ra vì hiện nay đã có đủ số người chơi quan trọng trong hệ sinh thái (Microsoft, Arm, Qualcomm, Nvidia, Mediatek), những người muốn và sẵn sàng biến Arm cho PC thành hiện thực. Tóm lại, Intel đã mất lợi thế trong CPU Client: thị trường từng chỉ có 1 người chơi giờ đây đã có 5 đối thủ nặng ký (Intel, AMD, Nvidia, Qualcomm, Apple). x86 có một lợi thế rất mong manh trong PC di động.
Trong khi thị trường PC Client chậm lại do smartphone, CPU x86 vẫn phát triển trong khối lượng công việc của CPU máy chủ và trung tâm dữ liệu. Intel dựa vào phân khúc sản phẩm trung tâm dữ liệu để tăng trưởng, đặc biệt từ khách hàng dịch vụ đám mây và siêu quy mô. Nhưng câu chuyện với máy chủ x86 phản ánh câu chuyện của máy khách x86, với tất cả các khách hàng chính chuyển sang Arm. Tuyến đầu đã bị phá vỡ, với dòng máy chủ CPU dựa trên Arm Graviton của AWS là người tiên phong.
Một điểm dữ liệu tuyệt vời từ AWS Re:Invent nắm bắt được thành công của Graviton:
Các siêu công ty khác đã ghi nhận và đang làm theo: Google có Axion, Microsoft có Cobalt, Alibaba có Yitian và Meta cũng đang phát triển CPU dựa trên Arm. Arm đang giúp khách hàng thiết kế chip tùy chỉnh cực kỳ dễ dàng với dịch vụ CSS của họ.
Đồng thời, Arm đang chiếm thị phần CPU và khối lượng công việc được tăng tốc đang chiếm thị phần từ CPU đa năng. Gen AI đang đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng máy tính lớn nhất từ trước đến nay, tập trung xung quanh GPU và các Bộ tăng tốc AI khác. Ngay cả sự tham gia nhỏ của x86 vào quá trình xây dựng này cũng đang giảm dần. GB200 của Nvidia, SKU Blackwell thế hệ tiếp theo có nhu cầu cao nhất, sử dụng CPU Grace (dựa trên Arm) của Nvidia để cung cấp cho GPU. Điều này thay vì CPU Xeon x86 được sử dụng cho cấu hình máy chủ AI phổ biến nhất của thế hệ này: Hopper HGX. Gaudi 3, Falcon Shores, v.v. của Intel không cạnh tranh được với lộ trình của AMD, chứ đừng nói đến của Nvidia.
Và không chỉ AI. Các khối lượng công việc khác cũng đang được đẩy nhanh. Các chip như AWS Nitro, Google Argos VPU và Meta MSVP đều được thiết kế với mục đích triển khai silicon hiệu quả về chi phí trong các khối lượng công việc lớn, chuyên biệt mà CPU đa năng không được tối ưu hóa. Chúng làm giảm TAM của CPU x86, giống như chiến lược điện toán tăng tốc của Nvidia. Giống như PC Client, x86 trong trung tâm dữ liệu đang mất thị phần từ nhiều phía: Arm và điện toán tăng tốc. Không thể làm gì để ngăn chặn điều này và ngay cả sản phẩm mới của Intel cũng không giải quyết được vấn đề.
Không, x86 sẽ không biến mất trong một sớm một chiều. Nó vẫn là một thị trường lớn và có tiềm năng là một ngành kinh doanh bò sữa. Nhưng trạng thái bò sữa chỉ xảy ra nếu một lượng lớn nhân viên bị sa thải, bóp nghẹt sự đổi mới trong dài hạn. Ngay cả khi đó, AMD và những người chơi Arm khác nhau có thể sẽ chiếm thị phần nhanh hơn so với suy nghĩ của HĐQT Intel. Chiến lược “tập trung vào sản phẩm” của HĐQT nghe có vẻ là một ngõ cụt.
Tuy nhiên, vấn đề là nếu không có năng lực sản xuất cũ của Intel, x86 của Intel không còn cạnh tranh được với AMD chứ đừng nói đến các tùy chọn dựa trên Arm. Intel có thể cắn răng chịu đựng và chịu lỗ về tỷ suất lợi nhuận gộp bằng cách thuê ngoài sản xuất cho TSMC. Điều này san bằng sân chơi với AMD nhưng không giải quyết được vấn đề Intel không thể thiết kế vượt trội AMD.
Đây là lý do tại sao các sản phẩm như Lunar Lake chủ yếu được gia công phần lớn cho TSMC không thể tăng tốc. Chúng có tỷ suất lợi nhuận gộp ở mức thanh thiếu niên. HĐQT không hiểu điều này bởi họ không hiểu về sản xuất chất bán dẫn. Tổ chức CPU Client vẫn xuất xưởng phần lớn các khuôn nguyên khối Raptor Lake do các nhà máy sản xuất chip Intel sản xuất vì một lý do. Nếu họ không làm vậy, Intel sẽ thất thoát tiền nhanh hơn nữa.
Nhóm Sản phẩm Intel đã bị chiều chuộng với quyền truy cập độc quyền vào một quy trình vượt trội trong nhiều thập kỷ, điều này đã che đậy bất kỳ sai sót nào trong kiến trúc vi mô của họ. Hậu quả là Intel sử dụng diện tích silicon gấp 2 lần cho sản phẩm ngày nay so với các công ty cùng ngành tốt nhất: AMD, Nvidia và Qualcomm. Điều đó nghe không giống như một công ty thiết kế hàng đầu, nhóm sản phẩm Intel lẽ ra không nên là trọng tâm. Nó chỉ đơn giản là di sản về vị trí dẫn đầu công nghệ của Intel trong chế tạo logic và sự thống trị của ISA x86 trong CPU đa năng. Điều đó không còn phù hợp ngày nay nữa.
Intel Foundry là tương lai của Intel. Nó có giá trị chiến lược to lớn đối với Hoa Kỳ và Tây bán cầu. Chất bán dẫn hàng đầu rất quan trọng đối với các ứng dụng tiêu dùng, công nghiệp và quân sự, nhưng phương Tây không có khả năng sản xuất chúng trên quy mô lớn.
TSMC là nhà sản xuất duy nhất với số lượng lớn, Đài Loan đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không cho phép sản xuất nút mới nhất ở nước ngoài. Dự án Arizona có công suất chưa bằng 1/5 so với Đài Loan ở mức 5nm và 3nm. Hơn nữa, TSMC Arizona sẽ sớm tụt hậu hai node quy trình so với công nghệ hàng đầu. Cần có thêm nguồn cung để đạt được bất kỳ mức độ an ninh quốc gia nào và điều này không được đảm bảo trong trường hợp khủng hoảng.
Thực thể duy nhất có khả năng lấp đầy khoảng trống này từ xa là Intel Foundry. Intel đã đưa ra thị trường nhiều công nghệ sản xuất hơn trước, chẳng hạn cổng kim loại K cao, FinFET, v.v... Họ đã mất EUV vào tay TSMC, nhưng lộ trình hiện tại đã đưa họ đến với cổng xung quanh, phân phối điện mặt sau, EUV NA cao và DSA trước TSMC.
Intel Foundry cần giúp đỡ. Intel có thể sẽ bị bán tháo theo từng phần; HĐQT đã tuyên bố sản phẩm là ưu tiên hàng đầu và nhà vô địch vĩ đại nhất của Foundry vừa bị đuổi việc. Doanh nghiệp là một lỗ đen capex: ngay cả khi việc xây dựng năng lực giảm đáng kể, Intel Foundry sẽ cần 36,5 tỷ USD chỉ cho thiết bị sản xuất wafer trong 3 năm tới. Vỏ fab và các chi phí khác sẽ cộng thêm từ 15 đến 20 tỷ USD. Intel không có dòng tiền để hỗ trợ điều này do những sai sót của nhóm sản phẩm, ngay cả khi có trợ cấp của Đạo luật CHIPS.
Tuy nhiên, chi phí mất quyền truy cập vào các chip tiên tiến sẽ cao hơn một bậc. Theo giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia, tình trạng thiếu chip năm 2021 đã khiến GDP của Hoa Kỳ thiệt hại 1% trong năm đó - khoảng 240 tỷ USD. Đó là sự gián đoạn kéo dài hàng tháng, chủ yếu ở các chip cũ. Phục hồi khả năng logic nâng cao từ con số không sẽ mất hàng thập kỷ. Nếu tình trạng thiếu hụt năm 2021 là mức tăng 10 foot thì việc giảm nguồn cung logic nâng cao xuống 0 sẽ là một cơn sóng thần cao 100 foot.
Bên cạnh rủi ro chi phí, còn có mệnh lệnh an ninh quốc gia. Nếu bạn tin Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan rằng “có lẽ không có công nghệ nào quan trọng hơn đối với an ninh quốc gia của chúng ta trong những năm tới” hơn các hệ thống AI tiên tiến, thì bạn cũng phải tin rằng Intel Foundry, với tư cách là lựa chọn tốt nhất của Mỹ để đảm bảo nguồn cung logic nâng cao, cũng rất quan trọng. Hãy tưởng tượng không có phương tiện để sản xuất công nghệ quan trọng nhất của thế kỷ tới. Intel Foundry phải được cứu.
Vậy làm thế nào Intel Foundry có thể tồn tại? Sản phẩm tối thiểu có thể tồn tại là nguồn thứ hai cho công nghệ hàng đầu của TSMC với khối lượng sản phẩm đáng kể từ nhiều công ty thiết kế fabless và siêu quy mô hàng đầu. Khách hàng muốn giảm thiểu rủi ro tiếp xúc với TSMC/Đài Loan giống như cộng đồng an ninh quốc gia.
Hiện tại, tìm nguồn cung ứng thứ hai với Intel Foundry đồng nghĩa với việc đánh đổi rủi ro địa chính trị để lấy hiệu suất và chi phí. Hệ sinh thái 18A chưa trưởng thành - PDK không tốt bằng TSMC, thư viện IP silicon đã được chứng minh còn nhỏ và hỗ trợ EDA không mạnh (các công ty EDA sẽ nhận được lợi nhuận cao hơn nhiều để hỗ trợ TSMC hơn Intel Foundry hiện tại).
Nhìn chung, chi phí chuyển thiết kế sang Intel 18A sẽ gần bằng nếu không muốn nói là nhiều hơn chi phí của một thiết kế mới - tại N2. Thị trường đã lên tiếng ở đây: nó quá đắt và rủi ro. Nếu không, chúng ta sẽ thấy các công ty fabless tìm nguồn cung ứng thứ hai cho các sản phẩm hàng đầu của họ.
Intel Foundry nên tập trung vào 1) một công nghệ quy trình cạnh tranh và 2) làm cho việc chuyển đổi thiết kế từ TSMC trở nên rẻ và dễ dàng nhất có thể. Điều trước đang đi đúng hướng, nhưng điều thứ hai thì chưa rõ ràng. Việc tách khỏi công ty mẹ Intel sẽ giảm bớt sự phân tâm và tăng cường sự tập trung. Cần có sự hỗ trợ của chính phủ vì lý do an ninh quốc gia. Intel Foundry là biện pháp phòng ngừa tốt nhất mà Mỹ có chống lại một cuộc đảo chính hoặc xâm lược Đài Loan do Trung Quốc tài trợ.
Nhưng lưu ý rằng việc Intel bán Intel Foundry sẽ không hiệu quả nếu không có khoản vốn hóa đáng kể lên tới ~ 50 tỷ USD được bơm vào Intel Foundry. AMD đã cố gắng tách các fab và đó là một thảm họa. Mubadala đã mua các fab từ AMD và tạo ra GlobalFoundries. Sau đó, họ tiếp tục mất 22,4 tỷ đô la trong thập kỷ tiếp theo.
Đó không phải là tất cả, IBM đã trả 1,5 tỷ đô la cho GlobalFoundries để được GlobalFoundries mua lại các fab của IBM. AMD cũng chịu gánh nặng với các thỏa thuận cung cấp wafer dài hạn, ngăn cản họ sử dụng các fab khác. Ngay cả với tất cả những điều này, GlobalFoundries đã phải dừng phát triển quy trình ở mức 14nm và chạy quy trình được cấp phép của Samsung + 14nm mục đích đặc biệt từ IBM. GlobalFoundries đã bỏ qua 10nm và bỏ hoàn toàn ở 7nm. Việc lặp lại điều này yêu cầu ai đó sẵn sàng chi hơn 50 tỷ USD để giữ cho Intel Foundry tồn tại.
Thay vào đó, Intel phải bán các nhóm sản phẩm như Client x86, Mobileye và Altera cho các công ty cổ phần tư nhân và những người khác như Broadcom và Qualcomm cùng với các thỏa thuận sản xuất dài hạn.
Mặc dù chính quyền Trump có thể dị ứng với bất cứ điều gì trông giống như “phúc lợi doanh nghiệp” nhưng nhiều quan chức chủ chốt là những người theo chủ nghĩa diều hâu an ninh quốc gia, những người nhận ra tầm quan trọng của việc có khả năng sản xuất logic tiên tiến trong nước. Một Intel Foundry độc lập được cấp vốn và có thỏa thuận sản xuất dài hạn từ 2 trong số các công ty bán dẫn lớn nhất ở Mỹ sẽ dễ dàng hơn nhiều để chính phủ hỗ trợ, cả về số tiền đô la và chính trị.
Intel Foundry sẽ không bị gánh nặng bởi nhóm sản phẩm tụt hậu của Intel, Mobileye hoặc Altera. Intel Foundry sẽ có một chức năng rõ ràng và nó rất quan trọng đối với an ninh quốc gia và tương lai của Mỹ và phương Tây.
#intelsasút
Nhìn kỹ hơn, những thất bại này không có gì đáng ngạc nhiên. 7 trong số 11 thành viên HĐQT không có kinh nghiệm liên quan đến bán dẫn. Hai thành viên khác có thành tích trong lĩnh vực này nhưng lại là học giả, không phải người trong ngành. Họ không có kinh nghiệm đưa ra quyết định khó khăn, hiểu được những bước ngoặt quan trọng trong kinh doanh và không đủ năng lực cho những gì đang bị đe dọa. Thành viên duy nhất có CV mạnh và phù hợp, Stacy J. Smith, mới gia nhập năm nay để thay thế Lip-Bu Tan.
Thập kỷ qua là giai đoạn tồi tệ nhất lịch sử Intel với phần lớn thiệt hại xảy ra trong những năm 2010. Pat Gelsinger đã dành vài năm qua để khắc phục nhưng việc xoay chuyển một "con tàu Titanic" không phải nhiệm vụ dễ dàng. Có một hằng số trong sự sụp đổ của Intel: 7 thành viên HĐQT vẫn còn tại vị cho đến ngày nay. Hãy so sánh sơ yếu lý lịch của HĐQT đã sa thải Gelsinger với sơ yếu lý lịch của ông ấy: bạn sẽ chọn ai để giải cứu Intel?
Thật khó để tìm được người phù hợp với công việc này hơn Gelsinger. Đáng tiếc, HĐQT đã mất can đảm trước bình minh sự xoay chuyển của Gelsinger. Bán dẫn là một trong những ngành công nghiệp phức tạp nhất và phải mất nhiều năm để điều chỉnh hướng đi. Trong cuộc họp HĐQT cuối cùng của mình, Gelsinger đã trình bày một kế hoạch chi tiêu vốn cập nhật mới. Kế hoạch là duy trì chi tiêu đáng kể cho Intel Foundry Services nhưng HĐQT đã không hài lòng với kế hoạch này đến mức ép buộc ông phải rời đi.
Gelsinger chắc chắn có thể làm tốt hơn với tư cách 1 CEO. Ông có phần lạc quan một cách phi lý nhưng đó là những gì Intel cần. Ông ấy đã có những sai lầm như chiến lược AI hiện tại vẫn còn thiếu sót với Gaudi 3 và Falcon Shores, có nghĩa Intel không bao giờ có được nhiều thị phần chip logic hoặc đào tạo GenAI. Sự mục nát về văn hóa chủ yếu xoay quanh các vấn đề 10nm về cơ bản đã được khắc phục từ góc độ kỹ thuật, nhưng khách hàng bên ngoài không được phục vụ một cách thích hợp. Việc mua lại Tower Semiconductor sẽ mang lại chuyên môn cần thiết cho khách hàng, nhưng sau khi thỏa thuận bị phá vỡ do các cơ quan quản lý, họ không có kế hoạch B. Intel có tiếng là khó làm việc cùng và không có quan điểm lấy khách hàng làm trung tâm; trong khi đó, TSMC thậm chí còn ngần ngại tăng giá đối với khách hàng - không có gì ngạc nhiên khi ai là người chiến thắng.
Tuy nhiên, Gelsinger là 1 ứng cử viên đủ tiêu chuẩn và muốn làm công việc này. Về mặt đó, có lẽ ông ấy là độc nhất vô nhị. Ngày nay, hội đồng quản trị có nhiều lựa chọn tồi tệ hơn.
Những thất bại của Intel
Các vấn đề tại Intel bắt đầu với nút 10nm (có thể cho là 14nm). Vào năm 2016, TSMC và Intel đã lên kế hoạch đưa quy trình 10nm của họ vào sản xuất hàng loạt. Trong khi TSMC thực hiện đúng tiến độ với một node có hiệu suất thấp hơn, Intel đã thúc đẩy việc thu nhỏ mạnh mẽ yêu cầu tạo mẫu 4 lần, các kết nối Cobalt mới và tiếp xúc trên cổng hoạt động. Sản lượng kém và node đã mất ba năm để sửa chữa. Vào thời điểm Intel xuất xưởng các sản phẩm 10nm với số lượng lớn, TSMC đã bán được hơn nửa triệu wafer N7 và đang lấy mẫu N5.
Sau đó, các sản phẩm của Intel bị ảnh hưởng do công nghệ quy trình trì trệ. Các đối thủ cạnh tranh như AMD có lợi thế về chế tạo của TSMC và trong nhiều trường hợp là thiết kế/kiến trúc chip tốt hơn. Thị phần trung tâm dữ liệu bắt đầu giảm sút và các vấn đề kinh doanh của Intel cứ thế chồng chất.
Đó là một phần dễ hiểu trong lịch sử của Intel. Tuy nhiên, vì một số lý do, sự kém cỏi và các quyết định lãnh đạo của hội đồng quản trị thường không phải là một phần của câu chuyện. Sự sụp đổ thực sự của một trong những công ty vĩ đại nhất từ trước đến nay đã bắt đầu hơn một thập kỷ trước đó, và nó bắt đầu với việc Intel không còn là Intel về mặt văn hóa.
Văn hóa mục nát
Câu chuyện về sự mục nát văn hóa của Intel bắt nguồn từ Paul Otellini. Paul và Pat Gelsinger là những người dẫn đầu cho vị trí CEO. Đây là lựa chọn lãnh đạo kinh điển của doanh nhân so với nhà công nghệ. Kết quả là Intel đã chọn CEO phi kỹ sư đầu tiên của mình.
Paul cuối cùng đã được chọn do các quyết định kinh doanh tàn nhẫn, loại AMD ra khỏi thị trường CPU và củng cố vai trò của Intel với tư cách là công ty độc quyền trong hơn một thập kỷ. Paul đã lập ra một chính sách liên quan đến việc trả tiền cho các OEM và đơn vị tích hợp hệ thống khác nhau để không sử dụng AMD, điều này đã làm giảm doanh thu, R&D và đầu tư vào fab của AMD. Chỉ riêng Dell đã được trả ~ 4,3 tỷ USD và đây là lý do duy nhất khiến Dell có lãi trong giai đoạn này. Intel và EU vẫn đang đấu tranh với hành vi phản cạnh tranh này tại tòa án cho đến ngày nay.
Kể từ đó, các quyết định kinh doanh chiếm ưu thế hơn công nghệ. Những người cũ của Intel tin rằng Paul là lý do tại sao tổ chức trở thành một địa ngục chính trị. Trước Paul, Intel có văn hóa "đối đầu mang tính xây dựng", ra quyết định dựa trên dữ liệu, tập trung cao độ vào việc thực hiện và trách nhiệm giải trình cao của Andy Grove. Có rất nhiều cuốn sách hay về nó, nhưng hãy nghe một cựu chiến binh Intel hồi tưởng, họ sẽ cho bạn biết mọi người luôn có số liệu để chứng minh quan điểm của mình và thường xuyên la hét vào nhau trong quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, con đường đã được chọn, công ty đã thống nhất và tiến lên phía trước. Intel khi đó là một đoàn tàu chở hàng không thể ngăn cản.
Intel đã có một cách khắc nghiệt để hoàn thành công việc, nhưng đó là một nền văn hóa hiệu quả. Paul Otellini đã thay đổi điều này. Các quyết định kỹ thuật bị gạt sang một bên vì quyền lực chính trị, con đường phía trước trong công ty là thông qua các cuộc đấu tranh quyền lực giữa các lãnh địa khác nhau. Sự mục nát văn hóa này bắt đầu dưới thời Paul Otellini và tiếp tục suy tàn cho đến khi Pat Gelsinger đến.
Bên cạnh việc thay đổi văn hóa, còn có rất nhiều quyết định tồi tệ mà hội đồng quản trị đã thông qua, chẳng hạn thực hiện một loạt vụ mua lại ngớ ngẩn, mua các công ty hoàn toàn không liên quan như McAfee và thậm chí không cố gắng giành được hợp đồng iPhone mặc dù đã được đề nghị. Những thất bại khi thâm nhập vào thiết bị di động và sự trỗi dậy của Arm là quyết định sẽ ám ảnh Intel mãi mãi. Người kế nhiệm của Paul còn tệ hơn.
Brian Krzanich là một thảm họa với tư cách là CEO. Ông chủ trì thảm họa 10nm. Sự quản lý yếu kém các nhà máy sản xuất chip này là vấn đề lớn nhất mà công ty phải đối mặt, bởi vì đó là cốt lõi của Intel. Mặc dù vậy, Krzanich chỉ bị sa thải khi mối quan hệ bất chính tại nơi làm việc bị đưa ra ánh sáng. HĐQT đề cử ông bao gồm John Donahoe — CEO đã khiến Nike trở nên kém hấp dẫn — cùng với chủ tịch tương lai Frank Yeary. Có thể viết sách về những thất bại của Brian với tư cách là một nhà lãnh đạo, những vụ mua lại tồi tệ, những thất bại trong AI và sự lãnh đạo kỹ thuật mục ná. Nhưng thực tế, ông ấy chỉ là sản phẩm phụ của nền văn hóa độc hại. Có lẽ được coi là CEO tồi tệ nhất từ trước đến nay của Intel.
Sai lầm dẫn xuống địa ngục
Không chịu thua kém, HĐQT năm 2018 đã thay thế Krzanich bằng CEO phi kỹ thuật thực sự đầu tiên trong lịch sử của Intel: Bob Swan. Về mặt kỹ thuật, Paul Otellini là CEO phi kỹ sư đầu tiên lãnh đạo Intel, nhưng ông đã có hơn 30 năm làm việc tại công ty, bao gồm thời gian làm cố vấn kỹ thuật cho Andy Grove huyền thoại và lãnh đạo bộ phận vi xử lý.
Swan là một CFO chuyên nghiệp - Intel là vị trí CFO thứ 10 của ông - do đó, kỹ thuật quy trình đã được ưu tiên hơn kỹ thuật tài chính. Intel của Swan đã chi tiêu cho việc mua lại cổ phiếu nhiều như chi tiêu vốn cho các nhà máy sản xuất chip trong nhiệm kỳ của ông: hơn 36 tỷ USD cho việc mua lại so với 38 tỷ USD cho Capex. Đây là hành vi sai trái trong một ngành công nghiệp thâm dụng vốn khi công ty đang mất thị phần và tụt hậu hơn hai node bán dẫn so với đối thủ cạnh tranh chính.
Brian Krzanich, Bob Swan và HĐQT Intel không chỉ cắt giảm Capex mà còn cắt giảm hàng loạt nhân tài kỹ thuật. Từ năm 2013 đến năm 2020, 4 trong số 7 năm có lượng nhân viên bị thu hẹp trong khi doanh nghiệp mất đi vị trí dẫn đầu về kỹ thuật và có lợi nhuận tuyệt vời. Con mắt nhàn rỗi, phi kỹ thuật của họ đã dẫn đến sự kém cỏi về kỹ thuật và các chính trị gia như Navin Shenoy, Murthy Renduchintala, Aicha Evans, Remi El-Ouazzane và nhiều người khác đã đưa ra những quyết định tồi tệ trong toàn tổ chức. Đây chỉ là một danh sách rút gọn. Pat Gelsinger là phương thuốc chữa bệnh đã dọn sạch nhiều lãnh địa và sự kém cỏi của những người quản lý này.
Còn những giám đốc đã thúc đẩy hành vi này thì sao? Năm trong số mười thành viên đó trong HĐQT vừa sa thải Pat Gelsinger. Sau khi sa thải, chủ tịch Frank Yeary đã tuyên bố trong một thông cáo báo chí rằng “với tư cách là hội đồng quản trị, trước hết và trên hết, chúng tôi biết rằng chúng tôi phải đặt nhóm sản phẩm của mình làm trung tâm cho mọi việc chúng tôi làm.”
Đây là một chiến lược lạc hậu sẽ không cứu được Intel. Có vẻ HĐQT đang mắc thêm sai lầm thiển cận nữa. Michelle là cựu giám đốc tiếp thị bán hàng và truyền thông và giám đốc doanh thu, còn Zinsner gia nhập vào năm 2022. Intel cần sự lãnh đạo vào thời điểm quan trọng này, và đây không phải là đồng CEO cho công việc này. Đọc một số công việc của Michelle với sự mất kết nối với thực tế, kinh doanh và chiến lược tiếp thị bên dưới:
Mất lợi thế trong x86
Thời kỳ hoàng kim của Intel là khi họ có công nghệ quy trình vượt trội kết hợp với lợi thế x86 của họ. Lợi thế x86 cũng bao gồm hai phần: Intel có lợi thế trong x86 và x86 có lợi thế trong điện toán. Ngày nay, cả hai lợi thế đó đều không còn.
Trước kỷ nguyên điện thoại thông minh, x86 là tập lệnh thống trị trong CPU đa năng. Hầu như mọi PC và máy chủ đều được đảm bảo có CPU dựa trên x86 vì phần mềm được viết để tương thích với tập lệnh x86. Điều này được lan truyền bởi liên minh “Wintel” (Windows và Intel), trong đó Windows là Hệ điều hành thống trị chạy độc quyền trên x86. Các nhà phát triển phần mềm sẽ tập trung nỗ lực vào việc phát triển phần mềm cho cơ sở người dùng lớn nhất: Windows và điều đó có nghĩa là tạo phần mềm cho x86. Đây là một hệ sinh thái cổ điển: khách hàng sẽ muốn có PC chạy Windows vì có nhiều tùy chọn phần mềm hơn và để sử dụng Windows có nghĩa là mua CPU dựa trên x86.
Hầu hết các CPU x86 đó là CPU Intel. Trong khi AMD cũng có quyền IP để thiết kế CPU dựa trên x86, thì AMD trong một thời gian dài bị ràng buộc với các nhà máy sản xuất chip (nay được tách ra thành Global Foundries) với quy trình kém hơn so với Intel, khiến nó không cạnh tranh được. Trớ trêu thay, đây là vị trí của Intel ngày nay. Những thất bại của Intel trong các nhà máy sản xuất chip và bước tiến không ngừng của TSMC đã cho phép AMD tận dụng kiến trúc và công nghệ quy trình vượt trội của mình để cuối cùng chống trả.
Một CPU dựa trên một kiến trúc khác có rất ít cơ hội nếu không được hỗ trợ về hệ điều hành và phần mềm, nếu không có sự thay đổi nền tảng. Sự thay đổi nền tảng này chính xác là những gì đã xảy ra trong kỷ nguyên smartphone. Mô hình smartphone nghĩa là hệ sinh thái phần mềm mới xuất hiện dưới dạng iOS và Android với các bộ ứng dụng mới, có nghĩa lợi thế kế thừa của x86 trong máy tính cá nhân không được chuyển sang điện thoại thông minh.
Mặc dù Intel đã nỗ lực trong bộ xư lý điện thoại thông minh nhưng đã quá muộn, nửa vời và với chiến lược sai lầm của tư duy PC. Họ không hiểu làm thế nào để đổi mới ngoài "con ngỗng vàng" của mình. Điều quan trọng, hiệu quả năng lượng quan trọng hơn nhiều đối với smartphone do hạn chế về pin (ít vấn đề hơn nhiều đối với PC), đây là nơi Intel thua các SoC smartphone dựa trên ARM khác.
CPU bị cạnh tranh dữ dội
Điều này bắt đầu làm mờ đi sự liên quan của Windows và Intel, được thay thế bằng kỷ nguyên Apple và Arm. Quan hệ đối tác này đã xâm phạm vào cốt lõi của Intel: Apple đã lấy kiến thức và kinh nghiệm từ việc thiết kế AP với SoC iPhone dòng A, biến nó thành SoC dòng M cực kỳ thành công cho máy tính vào năm 2020. 15 năm sau khi không chịu nổi sự thống trị của x86 so với IBM PowerPC, Apple đã chấm dứt quan hệ đối tác với Intel.
Sự chuyển đổi này chỉ được thực hiện nhờ nỗ lực to lớn để chuyển phần mềm được viết cho x86 sang Arm. Mảnh ghép quan trọng là trình giả lập Rosetta 2, biên dịch lại các ứng dụng khi cài đặt để hoạt động với silicon của Apple, cho phép chuyển đổi liền mạch. Apple M1 đã mở ra những cải tiến đáng kể về hiệu suất với các công cụ tăng tốc khác mà Intel không cung cấp, cùng với việc tăng đáng kể thời lượng pin. Đó là một cú huých. Đối với Apple, điều này có nghĩa hiệu suất cao hơn và tỷ suất lợi nhuận tốt hơn. Trong khi Lunar Lake mới của Intel bắt kịp sự cạnh tranh về bộ tăng tốc và thời lượng pin thì đã quá muộn; con tàu đã ra khơi.
Khóa phần mềm x86 đang bị phá vỡ. Điều này đã truyền cảm hứng cho các nhà sản xuất chip khác tấn công thị trường CPU máy khách trưởng thành nhưng béo bở bằng cách sử dụng ISA dựa trên Arm mở (đi kèm một mức giá). Ngay cả Microsoft của liên minh Wintel cũ cũng đã phản hồi bằng cách tung ra Windows cho Arm, hoàn thiện hệ sinh thái không phải x86.
Qualcomm đã phát hành Snapdragon X cho PC Windows vào năm 2024 và sẽ có nhiều người tham gia hơn. Nvidia và MediaTek đều đang độc lập nghiên cứu chip PC máy khách Arm. AMD dù được hưởng lợi từ hệ sinh thái x86, nhưng cũng đang phát triển CPU dựa trên Arm cho Microsoft dưới dạng chip bán tùy chỉnh.
Đúng vậy, Arm cho PC vẫn còn nhiều khó khăn cần giải quyết, vì vậy Snapdragon X của Qualcomm chưa chiếm được nhiều thị phần. Song, Arm cho PC chắc chắn xảy ra vì hiện nay đã có đủ số người chơi quan trọng trong hệ sinh thái (Microsoft, Arm, Qualcomm, Nvidia, Mediatek), những người muốn và sẵn sàng biến Arm cho PC thành hiện thực. Tóm lại, Intel đã mất lợi thế trong CPU Client: thị trường từng chỉ có 1 người chơi giờ đây đã có 5 đối thủ nặng ký (Intel, AMD, Nvidia, Qualcomm, Apple). x86 có một lợi thế rất mong manh trong PC di động.
Mất thị phần data center
Trong khi thị trường PC Client chậm lại do smartphone, CPU x86 vẫn phát triển trong khối lượng công việc của CPU máy chủ và trung tâm dữ liệu. Intel dựa vào phân khúc sản phẩm trung tâm dữ liệu để tăng trưởng, đặc biệt từ khách hàng dịch vụ đám mây và siêu quy mô. Nhưng câu chuyện với máy chủ x86 phản ánh câu chuyện của máy khách x86, với tất cả các khách hàng chính chuyển sang Arm. Tuyến đầu đã bị phá vỡ, với dòng máy chủ CPU dựa trên Arm Graviton của AWS là người tiên phong.
Một điểm dữ liệu tuyệt vời từ AWS Re:Invent nắm bắt được thành công của Graviton:
"Trong hai năm qua, hơn 50% tổng dung lượng CPU có trong trung tâm dữ liệu của chúng tôi là trên AWS Graviton. Hãy nghĩ về điều đó. Đó là nhiều bộ xử lý Graviton hơn tất cả các loại bộ xử lý khác cộng lại."
Dave Brown, Dẫn đầu AWS EC2 Compute and Networking
Các siêu công ty khác đã ghi nhận và đang làm theo: Google có Axion, Microsoft có Cobalt, Alibaba có Yitian và Meta cũng đang phát triển CPU dựa trên Arm. Arm đang giúp khách hàng thiết kế chip tùy chỉnh cực kỳ dễ dàng với dịch vụ CSS của họ.
Đồng thời, Arm đang chiếm thị phần CPU và khối lượng công việc được tăng tốc đang chiếm thị phần từ CPU đa năng. Gen AI đang đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng máy tính lớn nhất từ trước đến nay, tập trung xung quanh GPU và các Bộ tăng tốc AI khác. Ngay cả sự tham gia nhỏ của x86 vào quá trình xây dựng này cũng đang giảm dần. GB200 của Nvidia, SKU Blackwell thế hệ tiếp theo có nhu cầu cao nhất, sử dụng CPU Grace (dựa trên Arm) của Nvidia để cung cấp cho GPU. Điều này thay vì CPU Xeon x86 được sử dụng cho cấu hình máy chủ AI phổ biến nhất của thế hệ này: Hopper HGX. Gaudi 3, Falcon Shores, v.v. của Intel không cạnh tranh được với lộ trình của AMD, chứ đừng nói đến của Nvidia.
Và không chỉ AI. Các khối lượng công việc khác cũng đang được đẩy nhanh. Các chip như AWS Nitro, Google Argos VPU và Meta MSVP đều được thiết kế với mục đích triển khai silicon hiệu quả về chi phí trong các khối lượng công việc lớn, chuyên biệt mà CPU đa năng không được tối ưu hóa. Chúng làm giảm TAM của CPU x86, giống như chiến lược điện toán tăng tốc của Nvidia. Giống như PC Client, x86 trong trung tâm dữ liệu đang mất thị phần từ nhiều phía: Arm và điện toán tăng tốc. Không thể làm gì để ngăn chặn điều này và ngay cả sản phẩm mới của Intel cũng không giải quyết được vấn đề.
Không, x86 sẽ không biến mất trong một sớm một chiều. Nó vẫn là một thị trường lớn và có tiềm năng là một ngành kinh doanh bò sữa. Nhưng trạng thái bò sữa chỉ xảy ra nếu một lượng lớn nhân viên bị sa thải, bóp nghẹt sự đổi mới trong dài hạn. Ngay cả khi đó, AMD và những người chơi Arm khác nhau có thể sẽ chiếm thị phần nhanh hơn so với suy nghĩ của HĐQT Intel. Chiến lược “tập trung vào sản phẩm” của HĐQT nghe có vẻ là một ngõ cụt.
Không thể cạnh tranh nếu không có fab
Tuy nhiên, vấn đề là nếu không có năng lực sản xuất cũ của Intel, x86 của Intel không còn cạnh tranh được với AMD chứ đừng nói đến các tùy chọn dựa trên Arm. Intel có thể cắn răng chịu đựng và chịu lỗ về tỷ suất lợi nhuận gộp bằng cách thuê ngoài sản xuất cho TSMC. Điều này san bằng sân chơi với AMD nhưng không giải quyết được vấn đề Intel không thể thiết kế vượt trội AMD.
Đây là lý do tại sao các sản phẩm như Lunar Lake chủ yếu được gia công phần lớn cho TSMC không thể tăng tốc. Chúng có tỷ suất lợi nhuận gộp ở mức thanh thiếu niên. HĐQT không hiểu điều này bởi họ không hiểu về sản xuất chất bán dẫn. Tổ chức CPU Client vẫn xuất xưởng phần lớn các khuôn nguyên khối Raptor Lake do các nhà máy sản xuất chip Intel sản xuất vì một lý do. Nếu họ không làm vậy, Intel sẽ thất thoát tiền nhanh hơn nữa.
Nhóm Sản phẩm Intel đã bị chiều chuộng với quyền truy cập độc quyền vào một quy trình vượt trội trong nhiều thập kỷ, điều này đã che đậy bất kỳ sai sót nào trong kiến trúc vi mô của họ. Hậu quả là Intel sử dụng diện tích silicon gấp 2 lần cho sản phẩm ngày nay so với các công ty cùng ngành tốt nhất: AMD, Nvidia và Qualcomm. Điều đó nghe không giống như một công ty thiết kế hàng đầu, nhóm sản phẩm Intel lẽ ra không nên là trọng tâm. Nó chỉ đơn giản là di sản về vị trí dẫn đầu công nghệ của Intel trong chế tạo logic và sự thống trị của ISA x86 trong CPU đa năng. Điều đó không còn phù hợp ngày nay nữa.
Intel Foundry là bộ phận quan trọng nhất
Intel Foundry là tương lai của Intel. Nó có giá trị chiến lược to lớn đối với Hoa Kỳ và Tây bán cầu. Chất bán dẫn hàng đầu rất quan trọng đối với các ứng dụng tiêu dùng, công nghiệp và quân sự, nhưng phương Tây không có khả năng sản xuất chúng trên quy mô lớn.
TSMC là nhà sản xuất duy nhất với số lượng lớn, Đài Loan đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không cho phép sản xuất nút mới nhất ở nước ngoài. Dự án Arizona có công suất chưa bằng 1/5 so với Đài Loan ở mức 5nm và 3nm. Hơn nữa, TSMC Arizona sẽ sớm tụt hậu hai node quy trình so với công nghệ hàng đầu. Cần có thêm nguồn cung để đạt được bất kỳ mức độ an ninh quốc gia nào và điều này không được đảm bảo trong trường hợp khủng hoảng.
Thực thể duy nhất có khả năng lấp đầy khoảng trống này từ xa là Intel Foundry. Intel đã đưa ra thị trường nhiều công nghệ sản xuất hơn trước, chẳng hạn cổng kim loại K cao, FinFET, v.v... Họ đã mất EUV vào tay TSMC, nhưng lộ trình hiện tại đã đưa họ đến với cổng xung quanh, phân phối điện mặt sau, EUV NA cao và DSA trước TSMC.
Intel Foundry cần giúp đỡ. Intel có thể sẽ bị bán tháo theo từng phần; HĐQT đã tuyên bố sản phẩm là ưu tiên hàng đầu và nhà vô địch vĩ đại nhất của Foundry vừa bị đuổi việc. Doanh nghiệp là một lỗ đen capex: ngay cả khi việc xây dựng năng lực giảm đáng kể, Intel Foundry sẽ cần 36,5 tỷ USD chỉ cho thiết bị sản xuất wafer trong 3 năm tới. Vỏ fab và các chi phí khác sẽ cộng thêm từ 15 đến 20 tỷ USD. Intel không có dòng tiền để hỗ trợ điều này do những sai sót của nhóm sản phẩm, ngay cả khi có trợ cấp của Đạo luật CHIPS.
Tuy nhiên, chi phí mất quyền truy cập vào các chip tiên tiến sẽ cao hơn một bậc. Theo giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia, tình trạng thiếu chip năm 2021 đã khiến GDP của Hoa Kỳ thiệt hại 1% trong năm đó - khoảng 240 tỷ USD. Đó là sự gián đoạn kéo dài hàng tháng, chủ yếu ở các chip cũ. Phục hồi khả năng logic nâng cao từ con số không sẽ mất hàng thập kỷ. Nếu tình trạng thiếu hụt năm 2021 là mức tăng 10 foot thì việc giảm nguồn cung logic nâng cao xuống 0 sẽ là một cơn sóng thần cao 100 foot.
Bên cạnh rủi ro chi phí, còn có mệnh lệnh an ninh quốc gia. Nếu bạn tin Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan rằng “có lẽ không có công nghệ nào quan trọng hơn đối với an ninh quốc gia của chúng ta trong những năm tới” hơn các hệ thống AI tiên tiến, thì bạn cũng phải tin rằng Intel Foundry, với tư cách là lựa chọn tốt nhất của Mỹ để đảm bảo nguồn cung logic nâng cao, cũng rất quan trọng. Hãy tưởng tượng không có phương tiện để sản xuất công nghệ quan trọng nhất của thế kỷ tới. Intel Foundry phải được cứu.
Giải cứu Intel Foundry
Vậy làm thế nào Intel Foundry có thể tồn tại? Sản phẩm tối thiểu có thể tồn tại là nguồn thứ hai cho công nghệ hàng đầu của TSMC với khối lượng sản phẩm đáng kể từ nhiều công ty thiết kế fabless và siêu quy mô hàng đầu. Khách hàng muốn giảm thiểu rủi ro tiếp xúc với TSMC/Đài Loan giống như cộng đồng an ninh quốc gia.
Hiện tại, tìm nguồn cung ứng thứ hai với Intel Foundry đồng nghĩa với việc đánh đổi rủi ro địa chính trị để lấy hiệu suất và chi phí. Hệ sinh thái 18A chưa trưởng thành - PDK không tốt bằng TSMC, thư viện IP silicon đã được chứng minh còn nhỏ và hỗ trợ EDA không mạnh (các công ty EDA sẽ nhận được lợi nhuận cao hơn nhiều để hỗ trợ TSMC hơn Intel Foundry hiện tại).
Nhìn chung, chi phí chuyển thiết kế sang Intel 18A sẽ gần bằng nếu không muốn nói là nhiều hơn chi phí của một thiết kế mới - tại N2. Thị trường đã lên tiếng ở đây: nó quá đắt và rủi ro. Nếu không, chúng ta sẽ thấy các công ty fabless tìm nguồn cung ứng thứ hai cho các sản phẩm hàng đầu của họ.
Intel Foundry nên tập trung vào 1) một công nghệ quy trình cạnh tranh và 2) làm cho việc chuyển đổi thiết kế từ TSMC trở nên rẻ và dễ dàng nhất có thể. Điều trước đang đi đúng hướng, nhưng điều thứ hai thì chưa rõ ràng. Việc tách khỏi công ty mẹ Intel sẽ giảm bớt sự phân tâm và tăng cường sự tập trung. Cần có sự hỗ trợ của chính phủ vì lý do an ninh quốc gia. Intel Foundry là biện pháp phòng ngừa tốt nhất mà Mỹ có chống lại một cuộc đảo chính hoặc xâm lược Đài Loan do Trung Quốc tài trợ.
Nhưng lưu ý rằng việc Intel bán Intel Foundry sẽ không hiệu quả nếu không có khoản vốn hóa đáng kể lên tới ~ 50 tỷ USD được bơm vào Intel Foundry. AMD đã cố gắng tách các fab và đó là một thảm họa. Mubadala đã mua các fab từ AMD và tạo ra GlobalFoundries. Sau đó, họ tiếp tục mất 22,4 tỷ đô la trong thập kỷ tiếp theo.
Đó không phải là tất cả, IBM đã trả 1,5 tỷ đô la cho GlobalFoundries để được GlobalFoundries mua lại các fab của IBM. AMD cũng chịu gánh nặng với các thỏa thuận cung cấp wafer dài hạn, ngăn cản họ sử dụng các fab khác. Ngay cả với tất cả những điều này, GlobalFoundries đã phải dừng phát triển quy trình ở mức 14nm và chạy quy trình được cấp phép của Samsung + 14nm mục đích đặc biệt từ IBM. GlobalFoundries đã bỏ qua 10nm và bỏ hoàn toàn ở 7nm. Việc lặp lại điều này yêu cầu ai đó sẵn sàng chi hơn 50 tỷ USD để giữ cho Intel Foundry tồn tại.
Thay vào đó, Intel phải bán các nhóm sản phẩm như Client x86, Mobileye và Altera cho các công ty cổ phần tư nhân và những người khác như Broadcom và Qualcomm cùng với các thỏa thuận sản xuất dài hạn.
Mặc dù chính quyền Trump có thể dị ứng với bất cứ điều gì trông giống như “phúc lợi doanh nghiệp” nhưng nhiều quan chức chủ chốt là những người theo chủ nghĩa diều hâu an ninh quốc gia, những người nhận ra tầm quan trọng của việc có khả năng sản xuất logic tiên tiến trong nước. Một Intel Foundry độc lập được cấp vốn và có thỏa thuận sản xuất dài hạn từ 2 trong số các công ty bán dẫn lớn nhất ở Mỹ sẽ dễ dàng hơn nhiều để chính phủ hỗ trợ, cả về số tiền đô la và chính trị.
Intel Foundry sẽ không bị gánh nặng bởi nhóm sản phẩm tụt hậu của Intel, Mobileye hoặc Altera. Intel Foundry sẽ có một chức năng rõ ràng và nó rất quan trọng đối với an ninh quốc gia và tương lai của Mỹ và phương Tây.
#intelsasút