Kim Ai Tông (25 tháng 9 năm 1198 - 9 tháng 2 năm 1234), tên Hán là Hoàn Nhan Thủ Lễ hay Hoàn Nhan Thủ Tự tên Nữ Chân là Ninh Giáp Tốc, là vị hoàng đế thứ 9 của triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ ba của Kim Tuyên Tông Hoàn Nhan Tuân, mẹ là Vương thị, chào đời năm 1198.
Khi Tuyên Tông đăng cơ (1213), Thủ Lễ được nhận tước vị Toại vương. Do thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung và thái tôn Hoàn Nhan Khanh mất sớm nên vào tháng 1 năm 1216, Hoàn Nhan Thủ Lễ được Tuyên Tông lập làm thái tử, đổi tên là Hoàn Nhan Thủ Tự. Tháng giêng ÂL năm 1224, Kim Tuyên Tông qua đời, Hoàn Nhan Thủ Tự lên nối ngôi, tức là Kim Ai Tông.
Kim Ai Tông là một vị vua có lòng chấn hưng đất nước nhưng tiếc là không gặp thời. Lúc ông lên ngôi, nước Kim đã ở trong tình thế ngặt nghèo: một mặt là quân Mông Cổ liên tục xâm lấn, phần đất phía bắc sông Hoàng Hà gần như đã bị cướp sạch, người Mông Cổ đã bắt đầu đưa quân vượt sông tràn vào Trung Nguyên. Mặt khác trên mặt trận phía nam, triều Kim cũng thất bại trong các cuộc chiến tranh với Nam Tống, mất đất đai và khoản tiền triều cống, phía tây lại bị Tây Hạ liên tục quấy nhiễu, nước Kim đã ở trong tình thế sắp diệt vong.
Để cứu vãn tình hình, Kim Ai Tông chủ trương khuyến khích, phục hưng nông nghiệp, vỗ về dân chúng, tiến hành cải cách nội bộ, bỏ gian dùng hiền, bên ngoài đình chỉ chiến tranh với triều Nam Tống, thiết lập lại quan hệ hữu hảo với Tây Hạ, bổ nhiệm nhiều tướng giỏi cho mặt trận chống Mông Cổ, ban đầu đã có những chuyển biến tốt đẹp, triều Kim dần thu lại không ít đất đai bị mất. Nhưng mặc dù đã rất cố gắng nhưng Kim Ai Tông cũng không thể cứu vãn một triều đại sắp tàn vong.
Mùa hạ năm 1233, quân Mông Cổ tiến công Lạc Dương, tướng giữ thành Cường Thân bị bắt và tuẫn tiết. Không lâu sau, Nam Tống cử Mạnh Củng đưa quân từ Tảo Dương đánh Đường Châu, giết tướng Kim Vũ Thiên Tích, Ô Khố Lý Hắc Hán, chiếm Đường Châu rồi đánh sang Thuận Dương, tướng Kim Vũ Tiên phải chạy sang Mã Đăng Sơn rồi bị quân lính giết chết, hơn bảy vạn quân Kim đầu hàng người Tống. Tháng 10 ÂL, Nam Tống quyết định liên kết với tướng Mông Tháp Sát Nhi cùng đánh Kim, cử Mạnh Củng làm thống chế Giang Hải đem 2 vạn quân vận chuyển 30 vạn thạch mì về Thái Châu hội hợp với người Mông Cổ. Kim Ai Tông Thủ Tự lệnh Hoàn Nhan A Hổ đến Nam Tống xin lương thực và sai A Hổ chuyển lời trách cứ Nam Tống rằng:
"Quý quốc phụ lòng của trẫm. Từ lúc trẫm tức vị đến nay luôn ngăn biên tướng không xâm phạm biên giới phía nam, biên thần nếu gây việc can qua đều bị trách cứ nặng nề, lấy được châu nào của Tống thì cũng trả lại cả. Gần đây Kim bị nguy cấp thì Tống công đánh Thọ Châu, Đặng Châu, Đường Châu, cướp đất của ta. Phải biết rằng Mông Cổ đã diệt 40 nước rồi đến Tây Hạ. Hạ mất rồi thì đến ta. Ta mà mất rồi thì Tống cũng khó bảo toàn. Môi hở răng lạnh, tự nhiên chi lý. Chi bằng biết liên hợp với nhau, đỡ đần lúc khó khăn, giúp người cũng là giúp mình".
Nhưng Tống Lý Tông cự tuyệt, còn sai tướng Mạnh Củng đưa 2 vạn quân cùng 30 vạn thạch lương sang hội quân với Mông Cổ chống Kim. Lúc đó Ma Tông ở Từ Châu cũng đã hàng Mông Cổ. Tháp Tề Nhi thấy quân Nam Tống đến giúp liền tăng cường chuẩn bị công cụ, tiếng chẻ gỗ vọng vào thành, người trong thành khiếp sợ, bàn nhau ra hàng. Thượng thư hữu thừa Hoàn Nhan Trọng Đức cả ngày không về doanh trại, đứng ngoài trời ra sức khuyên nhủ quân dân, khiến cho lòng người phấn chấn trở lại, quyết tâm giữ thành.
Tháng 12 âm lịch năm 1233, quân Nam Tống do Mạnh Củng chỉ huy đánh chiếm được Sài Đàm Lâu, Mạnh Củng cho quân xẻ mương dẫn nước đi nơi khác để quân Kim bị thiếu nước rồi đánh mạnh vào thành ngoài. Người Kim ép già trẻ làm việc nấu dầu, gọi là pháo dầu người, mọi người không kham nổi khổ sở, Mạnh Củng bèn sai đạo sĩ thuyết phục họ dừng lại. Kim soái Phú Châu Lý Trung Lạc Sách soái 500 tinh binh, trong đêm ra cửa tây, mỗi người đều đem theo củi tẩm dầu, muốn thiêu trại và pháo cụ của liên quân.
Quân Mông Cổ phát hiện đầu tiên, vừa kịp náu mình, vừa kịp kéo hơn trăm cây nỏ cứng. Lửa cháy thì tên cũng bắn, quân Kim tử thương rất nhiều, chỉ có Lạc Sách chạy thoát. Liên quân hợp công hạ được thành tây, nhân đó trèo vào. Từ trước Hoàn Nhan Trọng Đức đã cho lập trại đào hào để phòng bị, khiến liên quân không thể vào tiếp, bèn dựng rào ở trên thành để giữ. Trọng Đức điều 300 tinh binh, đêm ngày chống cự. Kim Ai Tông muốn xông ra từ thành đông, bị rào cản lại, giao chiến với liên quân một chập mới chạy thoát trở về, giết ngựa để khao tướng sĩ, thừa nhận không có cách gì để đột vây. Tướng Kim Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ tìm cách bố trí phòng ngự ở thành trong. Kim Ai Tông biết thế nguy cấp nên khóc lóc nói với thị thần:
"Ta giữ chức Kim tử 10 năm, thái tử cũng 10 năm, làm Ai Tông 10 năm, từ đó đến nay không làm điều gì đại ác, có chết cũng không hận. Chỉ hận một điều rằng tổ tông truyền nối đã hơn 100 năm mà đến ta thì phải diệt vong, thì thực hận quá. Tự cổ đến nay quân chủ mất nước đều là hàng hoang *** bạo loạn, chỉ có mình ta là khác họ thôi".
Lại nói tiếp:
"Vong quốc chi quân, người thì bị tù tội, người bị giết hại, người bị làm nhục, người bị đày vào không cốc. Trẫm quyết không như thế. Vua chết vì xã tắc vì chính nghĩa, chứ quyết không làm nô lệ cho kẻ khác.
Nói xong, nước mắt lưng tròng, truyền lấy vàng bạc phân phát tướng sĩ và giết con ngựa của mình để khao quân".
Ngày 9 tháng 1 ÂL (tức 8 tháng 2), năm 1234, tức Tống Đoan Bình niên thứ nhất, Kim Thiên Hưng năm thứ ba, Mông Thái Tông năm thứ sáu, quân Mông Cổ phá thành tây làm ra 5 cửa tiến vào, tấn công gay gắt, đến chiều mới lui, còn lớn tiếng nói ngày mai đánh tiếp. Đêm hôm đó, Ai Tông Thủ Tự cho triệu nguyên soái Hoàn Nhan Thừa Lân vào cung để truyền ngôi. Thừa Lân khóc không dám nhận, Kim Ai Tông nói:
"Trẫm sở dĩ đem ngôi báu nhường cho khanh là vì vạn bất đắc dĩ. Trẫm thì cơ thể béo đẫy chả ngựa nào chịu nổi, còn khanh tài giỏi thao lược, nếu vạn nhất mà thoát được thì tông miếu giữ được, đó chính là ý của trẫm".
Sáng hôm sau, Hoàn Nhan Thừa Lân lên ngôi, tức là Kim Mạt Đế. Vừa lúc đó quân Tống đánh vào thành nam. Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ cùng khoảng 1000 quân ra nghênh chiến, quân lính bị thương vong gần hết. Kim Ai Tông tuyệt vọng liền lui về Lan Hiên tự vẫn. Năm đó Kim Ai Tông được 37 tuổi, giữ ngôi 11 năm.
Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ được tin, nói với tướng sĩ: "Chúa thượng đã băng, ta còn chiến đấu vì cái gì nữa. Nhưng ta có chết cũng phải chết rõ ràng không chết trong loạn binh. Nay ta đi theo chủ thượng, các ông hãy tự mà lo liệu lấy". Nói xong nhảy xuống nước tự tận.
Quân sĩ đều đồng thanh Tướng công tuẫn quốc, chúng tôi lẽ nào còn tham sống. Rồi hơn 500 người cùng nhau tuẫn tiết.
Hoàn Nhan Thừa Lân lui về giữ Tử Thành, nghe tin Kim Ai Tông tự vẫn, khóc than một hồi rồi nói Tiên đế ở ngôi 10 năm, cần kiệm khoan nhân, có chí khôi phục nghiệp cũ, nhưng chí chưa thành mà đã mất, thực là ai oán, nên truy trụy là Ai. Lễ tôn thụy vừa xong thì liên quân đánh vào, Hoàn Nhan Thừa Lân chết trong loạn quân.
Hoàn Nhan Phong Sơn theo di chiếu đã cho hỏa thiêu di hài Kim chủ. Tướng Tống Giang Hải vào cung bắt được tham chính Trương Thiên Cương. Mạnh Củng vào hỏi nơi ở của Kim Ai Tông thì mới biết Kim Ai Tông đã chết. Mạnh Củng cho quân dập lửa và nhìn thấy thi hài khô đét của Kim chủ. Rồi cùng Tháp Sát Nhi đem hài cốt Kim Ai Tông và vàng bạc châu báu của Kim chia làm hai, mỗi bên lấy một, lấy tây bắc Trần Thái làm ranh giới, bắc thuộc Mông, nam thuộc Tống. Nước Kim diệt vong...
Khi Tuyên Tông đăng cơ (1213), Thủ Lễ được nhận tước vị Toại vương. Do thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung và thái tôn Hoàn Nhan Khanh mất sớm nên vào tháng 1 năm 1216, Hoàn Nhan Thủ Lễ được Tuyên Tông lập làm thái tử, đổi tên là Hoàn Nhan Thủ Tự. Tháng giêng ÂL năm 1224, Kim Tuyên Tông qua đời, Hoàn Nhan Thủ Tự lên nối ngôi, tức là Kim Ai Tông.
Kim Ai Tông là một vị vua có lòng chấn hưng đất nước nhưng tiếc là không gặp thời. Lúc ông lên ngôi, nước Kim đã ở trong tình thế ngặt nghèo: một mặt là quân Mông Cổ liên tục xâm lấn, phần đất phía bắc sông Hoàng Hà gần như đã bị cướp sạch, người Mông Cổ đã bắt đầu đưa quân vượt sông tràn vào Trung Nguyên. Mặt khác trên mặt trận phía nam, triều Kim cũng thất bại trong các cuộc chiến tranh với Nam Tống, mất đất đai và khoản tiền triều cống, phía tây lại bị Tây Hạ liên tục quấy nhiễu, nước Kim đã ở trong tình thế sắp diệt vong.
Để cứu vãn tình hình, Kim Ai Tông chủ trương khuyến khích, phục hưng nông nghiệp, vỗ về dân chúng, tiến hành cải cách nội bộ, bỏ gian dùng hiền, bên ngoài đình chỉ chiến tranh với triều Nam Tống, thiết lập lại quan hệ hữu hảo với Tây Hạ, bổ nhiệm nhiều tướng giỏi cho mặt trận chống Mông Cổ, ban đầu đã có những chuyển biến tốt đẹp, triều Kim dần thu lại không ít đất đai bị mất. Nhưng mặc dù đã rất cố gắng nhưng Kim Ai Tông cũng không thể cứu vãn một triều đại sắp tàn vong.
Mùa hạ năm 1233, quân Mông Cổ tiến công Lạc Dương, tướng giữ thành Cường Thân bị bắt và tuẫn tiết. Không lâu sau, Nam Tống cử Mạnh Củng đưa quân từ Tảo Dương đánh Đường Châu, giết tướng Kim Vũ Thiên Tích, Ô Khố Lý Hắc Hán, chiếm Đường Châu rồi đánh sang Thuận Dương, tướng Kim Vũ Tiên phải chạy sang Mã Đăng Sơn rồi bị quân lính giết chết, hơn bảy vạn quân Kim đầu hàng người Tống. Tháng 10 ÂL, Nam Tống quyết định liên kết với tướng Mông Tháp Sát Nhi cùng đánh Kim, cử Mạnh Củng làm thống chế Giang Hải đem 2 vạn quân vận chuyển 30 vạn thạch mì về Thái Châu hội hợp với người Mông Cổ. Kim Ai Tông Thủ Tự lệnh Hoàn Nhan A Hổ đến Nam Tống xin lương thực và sai A Hổ chuyển lời trách cứ Nam Tống rằng:
"Quý quốc phụ lòng của trẫm. Từ lúc trẫm tức vị đến nay luôn ngăn biên tướng không xâm phạm biên giới phía nam, biên thần nếu gây việc can qua đều bị trách cứ nặng nề, lấy được châu nào của Tống thì cũng trả lại cả. Gần đây Kim bị nguy cấp thì Tống công đánh Thọ Châu, Đặng Châu, Đường Châu, cướp đất của ta. Phải biết rằng Mông Cổ đã diệt 40 nước rồi đến Tây Hạ. Hạ mất rồi thì đến ta. Ta mà mất rồi thì Tống cũng khó bảo toàn. Môi hở răng lạnh, tự nhiên chi lý. Chi bằng biết liên hợp với nhau, đỡ đần lúc khó khăn, giúp người cũng là giúp mình".
Nhưng Tống Lý Tông cự tuyệt, còn sai tướng Mạnh Củng đưa 2 vạn quân cùng 30 vạn thạch lương sang hội quân với Mông Cổ chống Kim. Lúc đó Ma Tông ở Từ Châu cũng đã hàng Mông Cổ. Tháp Tề Nhi thấy quân Nam Tống đến giúp liền tăng cường chuẩn bị công cụ, tiếng chẻ gỗ vọng vào thành, người trong thành khiếp sợ, bàn nhau ra hàng. Thượng thư hữu thừa Hoàn Nhan Trọng Đức cả ngày không về doanh trại, đứng ngoài trời ra sức khuyên nhủ quân dân, khiến cho lòng người phấn chấn trở lại, quyết tâm giữ thành.
Tháng 12 âm lịch năm 1233, quân Nam Tống do Mạnh Củng chỉ huy đánh chiếm được Sài Đàm Lâu, Mạnh Củng cho quân xẻ mương dẫn nước đi nơi khác để quân Kim bị thiếu nước rồi đánh mạnh vào thành ngoài. Người Kim ép già trẻ làm việc nấu dầu, gọi là pháo dầu người, mọi người không kham nổi khổ sở, Mạnh Củng bèn sai đạo sĩ thuyết phục họ dừng lại. Kim soái Phú Châu Lý Trung Lạc Sách soái 500 tinh binh, trong đêm ra cửa tây, mỗi người đều đem theo củi tẩm dầu, muốn thiêu trại và pháo cụ của liên quân.
Quân Mông Cổ phát hiện đầu tiên, vừa kịp náu mình, vừa kịp kéo hơn trăm cây nỏ cứng. Lửa cháy thì tên cũng bắn, quân Kim tử thương rất nhiều, chỉ có Lạc Sách chạy thoát. Liên quân hợp công hạ được thành tây, nhân đó trèo vào. Từ trước Hoàn Nhan Trọng Đức đã cho lập trại đào hào để phòng bị, khiến liên quân không thể vào tiếp, bèn dựng rào ở trên thành để giữ. Trọng Đức điều 300 tinh binh, đêm ngày chống cự. Kim Ai Tông muốn xông ra từ thành đông, bị rào cản lại, giao chiến với liên quân một chập mới chạy thoát trở về, giết ngựa để khao tướng sĩ, thừa nhận không có cách gì để đột vây. Tướng Kim Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ tìm cách bố trí phòng ngự ở thành trong. Kim Ai Tông biết thế nguy cấp nên khóc lóc nói với thị thần:
"Ta giữ chức Kim tử 10 năm, thái tử cũng 10 năm, làm Ai Tông 10 năm, từ đó đến nay không làm điều gì đại ác, có chết cũng không hận. Chỉ hận một điều rằng tổ tông truyền nối đã hơn 100 năm mà đến ta thì phải diệt vong, thì thực hận quá. Tự cổ đến nay quân chủ mất nước đều là hàng hoang *** bạo loạn, chỉ có mình ta là khác họ thôi".
Lại nói tiếp:
"Vong quốc chi quân, người thì bị tù tội, người bị giết hại, người bị làm nhục, người bị đày vào không cốc. Trẫm quyết không như thế. Vua chết vì xã tắc vì chính nghĩa, chứ quyết không làm nô lệ cho kẻ khác.
Nói xong, nước mắt lưng tròng, truyền lấy vàng bạc phân phát tướng sĩ và giết con ngựa của mình để khao quân".
Ngày 9 tháng 1 ÂL (tức 8 tháng 2), năm 1234, tức Tống Đoan Bình niên thứ nhất, Kim Thiên Hưng năm thứ ba, Mông Thái Tông năm thứ sáu, quân Mông Cổ phá thành tây làm ra 5 cửa tiến vào, tấn công gay gắt, đến chiều mới lui, còn lớn tiếng nói ngày mai đánh tiếp. Đêm hôm đó, Ai Tông Thủ Tự cho triệu nguyên soái Hoàn Nhan Thừa Lân vào cung để truyền ngôi. Thừa Lân khóc không dám nhận, Kim Ai Tông nói:
"Trẫm sở dĩ đem ngôi báu nhường cho khanh là vì vạn bất đắc dĩ. Trẫm thì cơ thể béo đẫy chả ngựa nào chịu nổi, còn khanh tài giỏi thao lược, nếu vạn nhất mà thoát được thì tông miếu giữ được, đó chính là ý của trẫm".
Sáng hôm sau, Hoàn Nhan Thừa Lân lên ngôi, tức là Kim Mạt Đế. Vừa lúc đó quân Tống đánh vào thành nam. Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ cùng khoảng 1000 quân ra nghênh chiến, quân lính bị thương vong gần hết. Kim Ai Tông tuyệt vọng liền lui về Lan Hiên tự vẫn. Năm đó Kim Ai Tông được 37 tuổi, giữ ngôi 11 năm.
Hoàn Nhan Hốt Tà Hổ được tin, nói với tướng sĩ: "Chúa thượng đã băng, ta còn chiến đấu vì cái gì nữa. Nhưng ta có chết cũng phải chết rõ ràng không chết trong loạn binh. Nay ta đi theo chủ thượng, các ông hãy tự mà lo liệu lấy". Nói xong nhảy xuống nước tự tận.
Quân sĩ đều đồng thanh Tướng công tuẫn quốc, chúng tôi lẽ nào còn tham sống. Rồi hơn 500 người cùng nhau tuẫn tiết.
Hoàn Nhan Thừa Lân lui về giữ Tử Thành, nghe tin Kim Ai Tông tự vẫn, khóc than một hồi rồi nói Tiên đế ở ngôi 10 năm, cần kiệm khoan nhân, có chí khôi phục nghiệp cũ, nhưng chí chưa thành mà đã mất, thực là ai oán, nên truy trụy là Ai. Lễ tôn thụy vừa xong thì liên quân đánh vào, Hoàn Nhan Thừa Lân chết trong loạn quân.
Hoàn Nhan Phong Sơn theo di chiếu đã cho hỏa thiêu di hài Kim chủ. Tướng Tống Giang Hải vào cung bắt được tham chính Trương Thiên Cương. Mạnh Củng vào hỏi nơi ở của Kim Ai Tông thì mới biết Kim Ai Tông đã chết. Mạnh Củng cho quân dập lửa và nhìn thấy thi hài khô đét của Kim chủ. Rồi cùng Tháp Sát Nhi đem hài cốt Kim Ai Tông và vàng bạc châu báu của Kim chia làm hai, mỗi bên lấy một, lấy tây bắc Trần Thái làm ranh giới, bắc thuộc Mông, nam thuộc Tống. Nước Kim diệt vong...