ngocmai25tran
Pearl
Từ một nước nghèo ở "thế giới thứ ba", Singapore mất 30 năm để trở thành một trung tâm tài chính hàng đầu và giữ phong độ đến ngày nay.
"Này ông Van Oenen, chúng tôi muốn Singapore thành trung tâm tài chính của Đông Nam Á trong 10 năm nữa", TS. Albert Winsemius, Cố vấn kinh tế của Chính phủ Singapore nói khi gọi điện cho người bạn đang là Phó giám đốc chi nhánh của một ngân hàng Mỹ tại Singapore.
Van Oenen, người lúc này đang ở Anh, trả lời: "Được đấy, anh hãy đến London đi. Các anh có thể phát triển nó chỉ trong 5 năm". Đó là năm 1968.
Khi đến London, TS. Winsemius được Van Oenen đưa đến trước một quả địa cầu lớn đặt trong phòng họp ban giám đốc.
Chỉ tay lên đó, Van Oenen từ từ giải thích. Thế giới tài chính bắt đầu ở Zurich. Các ngân hàng Zurich mở cửa lúc 9 giờ sáng, sau đó là Frankfurt, rồi đến London. Buổi chiều Zurich đóng cửa, kế đến là Frankfurt, rồi lại đến London. Trong lúc ấy New York mở cửa. Vì thế, London chuyển giao dịch tài chính cho New York. Buổi chiều, New York đóng cửa và họ chuyển giao dịch sang San Francisco. Nhưng khi San Francisco đóng cửa thì thế giới chìm trong màn đêm.
"Không có gì xảy ra mãi cho đến 9 giờ sáng hôm sau (giờ Thụy Sĩ), đó là lúc các ngân hàng Thụy Sĩ mở cửa. Nếu đặt Singapore vào giữa, trước lúc San Francisco đóng cửa thì Singapore sẽ nắm quyền kiểm soát", ông Van Oenen gợi ý.
TS. Albert Winsemius (đeo kính bên trái) và ông Lý Quang Diệu tại Trung Quốc năm 1980. Ảnh: Business Times
Cuộc trò chuyện này cũng được kể lại trong cuốn hồi ký của ông Lý Quang Diệu. Khi được TS. Albert Winsemius chia sẻ ý tưởng này, ông đang là Thủ tướng đương nhiệm Singapore và nhận ra mình phải làm gì.
"Không giống Hong Kong, Singapore không thể dựa trên danh tiếng của thành phố London là một trung tâm tài chính có lịch sử ngân hàng lâu đời, cũng như không thể dựa vào sự giúp đỡ của Ngân hàng Anh vốn tiêu biểu cho sự dày dạn kinh nghiệm, độ tin cậy và uy tín về mặt tài chính. Năm 1968, Singapore là một nước thuộc Thế giới thứ Ba", ông Lý Quang Diệu viết trong hồi ký.
Ngay trong năm 1968, Singapore quyết định thành lập Thị trường Đôla châu Á (Asian Dollar Market - ADM). Cùng với Đơn vị tiền tệ châu Á (Asian Currency Unit - ACU) được thành lập song song, ADM đã cho phép các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài tham gia vào lĩnh vực dịch vụ tài chính của Singapore. Để ADM và ACU phát triển, ông Diệu tung ra các biện pháp khuyến khích và ưu đãi về thuế.
Ban đầu, ADM chủ yếu là thị trường liên ngân hàng ở Singapore, có khả năng nắm giữ các quỹ ngoại tệ của các ngân hàng nước ngoài rồi cho các ngân hàng trong khu vực vay và ngược lại. Sau đó, nó mua bán ngoại hối và những phát sinh tài chính bằng ngoại tệ gọi là trái khoản, đảm trách công việc cho vay, phát hành trái phiếu và quản lý vốn. ADM phát triển đến mức vượt hơn 500 tỷ USD, xấp xỉ gấp ba lần quy mô thị trường ngân hàng nội địa vào năm 1997.
Khi ngành dịch vụ tài chính của Singapore ngày càng phát triển phức tạp và quốc tế hóa với sự gia tăng của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, nhu cầu về cách tiếp cận hợp nhất hơn để quản lý và điều tiết ngành trở nên cấp thiết. Vì vậy Cơ quan tiền tệ Singapore ra đời năm 1971. Cơ quan này đóng hai vai trò là ngân hàng trung ương và quản lý tài chính.
Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SES) sau đó được thành lập vào năm 1973. SES tiếp tục được hợp nhất với Sở giao dịch tiền tệ quốc tế Singapore để tạo thành Sở giao dịch Singapore (SGX), nhằm đáp ứng sự đa dạng ngày càng tăng của thị trường vốn Singapore.
Việc hình thành MAS và SGX là một phản ứng thể chế với sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của Singapore trong thời kỳ này. Cùng với đó, đảo quốc còn lập ra một số cơ quan liên quan đến tài chính khác, đưa nước này trải qua một thời kỳ quốc tế hóa và đa dạng hóa hơn nữa trong những năm 1980 và 1990.
Một yếu tố rõ ràng khác trong sự trỗi dậy của Singapore là khả năng của ông Lý Quang Diệu trong việc tận dụng lợi thế của những biến động tài chính toàn cầu. Điều này bắt đầu vào năm 1971 khi Mỹ tách đồng USD khỏi vàng. Ông đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội và đẩy mạnh hơn nữa việc Singapore thành trung tâm ngoại hối khu vực, tốn có nền tảng từ ADM và ACU.
"Trong những năm từ 1968 đến 1985, chúng tôi hầu như một mình một chợ trong khu vực, thu hút các cơ quan tài chính quốc tế bằng cách hủy bỏ thuế lợi tức đánh vào thu nhập lãi vay của khách gửi tiền không lưu trú. Mọi khoản tiền gửi bằng đồng đôla châu Á được miễn yêu cầu thanh toán và dự trữ pháp định", ông kể lại trong hồi ký.
"Trung tâm tài chính của chúng tôi đặt nền tảng trên luật lệ, với bộ máy tư pháp độc lập cùng một chính quyền ổn định, có năng lực và trong sạch, một chính quyền theo đuổi những chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, ngân sách hầu như bội thu hằng năm. Điều này đưa đến kết quả là đồng đôla Singapore mạnh và ổn định, cùng với tỷ giá hối đoái hợp lý đã ngăn chặn tình trạng lạm phát từ ngoài lan vào", hồi ký của ông Lý Quang Diệu viết.
Bằng những điều luật khắt khe và sự giám sát chặt chẽ, MAS đã giúp Singapore phát triển thành một trung tâm tài chính, tránh được hàng loạt vụ bê bối tài chính trong nhiều thập niên trên thế giới. Và để đáp lại sự cạnh tranh từ các ngân hàng quốc tế, MAS khuyến khích bốn ngân hàng địa phương lớn nhất – được biết như là "Big Four" – mua và sáp nhập với những ngân hàng địa phương nhỏ để trở nên lớn mạnh hơn. "Big Four" được Moody’s, xếp vào hàng những ngân hàng được đầu tư mạnh và tốt nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, thời gian đó trung tâm tài chính của Singapore được đánh giá là bị kiểm soát quá mức so với trung tâm tài chính của Hong Kong. Ông Lý Quang Diệu lắng nghe nhưng không can thiệp vào bởi lẽ ông tin rằng họ cần có nhiều thời gian hơn để thiết lập vị trí và uy tín.
"Họ quên rằng lá cờ Anh và Ngân hàng Anh hậu thuẫn cho Hong Kong. Còn Singapore, không có được lưới bảo hiểm đó, nên không thể gượng dậy từ cùng một thất bại đầy kịch tính một cách dễ dàng tương tự. Singapore trước hết phải tự thiết lập danh tiếng của bản thân", ông nói.
Một góc khu vực các tòa nhà văn phòng tài chính ở Vịnh Marina, Singapore. Ảnh: Pixabay
Cùng với việc phát triển hạ tầng "mềm", Singapore cũng liên tục đầu tư phát triển hạ tầng cứng trong nhiều thập niên nhằm đáp ứng nhu cầu không gian của hàng nghìn tổ chức tài chính quy tụ về. Cuối những năm 1970, đề án xây dựng khu vực vịnh Marina rộng 360 ha ra đời để thay thế vai trò đã quá tải của Khu Thương mại Trung tâm (CBD) hiện hữu.
Cơ quan Tái phát triển Đô thị (URA), đặt tầm nhìn về Vịnh Marina là "một nơi phát triển 24/7, thịnh vượng và tràn đầy năng lượng, nơi mọi người sống, làm việc và vui chơi". Khu vực này ngay lập tức được khai hoang, cải tạo qua 7 giai đoạn, kéo dài đến năm 1993 thì cơ bản hoàn thành, tạo lập diện mạo của Vịnh Marina ngày nay với hàng loạt cao ốc văn phòng của các tổ chức tài chính quốc tế.
Đến những năm 1990, các khu thương mại mới, trung tâm bán lẻ, không gian hội nghị, khách sạn và một trung tâm nghệ thuật lớn mới bắt đầu mọc lên tại Marina Centre. "Kế hoạch cho Marina Bay là kịp thời khi nhiều năm phát triển ở khu thương mại trung tâm (CBD) đã không còn nhiều dư địa để tăng trưởng hơn nữa", Trường chính sách công Lý Quang Diệu nhận xét.
Nhờ có khu Marina, Singapore kịp thời đáp ứng được sự thay đổi trong ngành tài chính toàn cầu vào cuối những năm 1990. Khi ấy, các tổ chức lớn hơn yêu cầu các tấm sàn lớn hơn có không gian tiếp giáp và không có cột phải từ 1.400 m2 trở lên để đáp ứng các hoạt động của họ mà không bị dàn trải nhiều tầng.
Ngoài ra, do là một khu trung tâm đa tiện tích, những người làm việc trong lĩnh vực tài chính cũng đánh giá cao sự phát triển tích hợp có thể kết hợp văn phòng với các lựa chọn về lối sống và nhà ở chất lượng cao ở Vịnh Marina.
Đến 2014, Singapore là trung tâm ngoại hối lớn thứ tư trên thế giới và có khả năng cấp vốn bằng USD rất cao. Ngoài hàng trăm tập đoàn đa quốc gia sử dụng Singapore làm trụ sở khu vực, nơi đây còn có khoảng 4.000 công ty Trung Quốc chọn làm bệ phóng khi thâm nhập Đông Nam Á.
Vào những năm 90, Singapore thực sự trở thành một trong những trung tâm tài chính tầm cỡ thế giới với thị trường ngoại hối đứng hàng thứ tư sau London, New York và chỉ đứng sau Tokyo một chút. Nhưng đến đầu năm 1997, nhận thấy MAS bị trì trệ, ông Lý Quang Diệu đã vận động đưa ông Lý Hiển Long làm Chủ tịch MAS từ 1998.
Ngay khi tham gia, ông Long tiến hành từng bước để đẩy mạnh ngành quản lý tài sản và chỉnh sửa các điều luật quốc tế hóa đồng đôla Singapore, để đẩy mạnh mức tăng trưởng thị trường vốn. MAS khuyến khích SES (Sở Giao dịch Chứng khoán) và SIMEX (thị trường mua bán kỳ hạn) sáp nhập, thả nổi mức hoa hồng và quyền tiếp cận các sở giao dịch này.
MAS cũng tự do hóa việc thâm nhập vào khu vực ngân hàng nội địa bằng cách cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài mở thêm chi nhánh và các ATM. Nó tháo bỏ các hạn chế quyền sở hữu của nước ngoài về các cổ phần ngân hàng nội địa, trong khi yêu cầu các ngân hàng thành lập các ủy ban trong hội đồng quản trị, rập khuôn những cách tổ chức tương tự ở nhiều ngân hàng Mỹ.
"Chúng ta phải cố gắng hết sức để tạo ra sự khác biệt cho chính mình, như cung cấp chính trị và kinh tế ổn định, pháp quyền, cơ sở hạ tầng hiệu quả và lực lượng chuyên gia có tay nghề cao. Đây là những điểm đặc biệt, có lợi cho các hoạt động như quản lý tài sản. Chúng ta cần tìm ra những cách mới để tiếp thị chúng và mang lại hiệu quả kinh doanh", ông Lý Hiển Long nói vào tháng 10/2002, khi đang là Phó thủ tướng Singapore kiêm Chủ tịch MAS.
Theo hãng tư vấn Viettonkin Consulting, có 3 yếu tố then chốt đến Singapore trở thành một trung tâm tài chính.
Đầu tiên là chính sách, với quy định và sự giám sát chặt chẽ đã mang lại niềm tin cho nhà đầu tư. Điều này giúp Singapore ổn định tài chính, ngay cả trong tài chính toàn cầu 2007-2008.
Sự hỗ trợ từ chính phủ được cho là rất dồi dào, với các biện pháp khuyến khích nhằm thu hút nhiều người chơi hơn vào lĩnh vực tài chính và khuyến khích sự phát triển của lĩnh vực này. Ví dụ gần đây, để giúp giảm bớt tác động tiêu cực từ Covid-19 đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính và bảo hiểm, MAS đã công bố gói hỗ trợ 125 triệu USD cho các công ty trong lĩnh vực này.
Thứ hai, Singapore có một lượng lớn các chuyên gia tài chính. Để đảm bảo nguồn lao động có kỹ năng, Viện Ngân hàng và Tài chính Singapore (IBF) và Lực lượng Lao động Singapore (WSG) đã tham gia đào tạo cho các chuyên gia những bộ kỹ năng cần thiết giúp họ phát triển trong ngành.
Thứ ba là cơ sở hạ tầng kinh doanh. Các chi phí như tiền lương và thuê nhà ở đây đã tăng đều đặn. Tuy nhiên, giá thuê văn phòng tại Singapore vẫn thấp hơn so với các trung tâm tài chính đối thủ hàng đầu như London, New York, Hong Kong và Tokyo.
Trong khi nói về cơ sở hạ tầng, Singapore có một hệ thống giao thông công cộng hiệu quả và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tiên tiến. Họ đứng hàng đầu thế giới về cơ sở hạ tầng giao thông, cũng là một trung tâm hàng không nổi tiếng và trung tâm cảng sầm uất.
"Chúng tôi phải mất 30 năm kể từ lúc mở thị trường đồng đôla châu Á đầu tiên vào năm 1968 để thiết lập uy tín là một trung tâm tài chính quốc tế được quản lý một cách đúng đắn", ông Lý Quang Diệu viết trong hồi ký.
Ngày nay, vị thế trung tâm tài chính mà vị cố thủ tướng này tạo lập vẫn liên tục được củng cố. Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu (Global Financial Centres Index) cập nhật đến tháng 9/2021 xếp Singapore là trung tâm tài chính ảnh hưởng lớn thứ tư thế giới, sau New York, London, và Hong Kong. So với lần xếp hạng liền trước vào tháng 3/2021, thứ hạng của Singapre tiếp tục tăng lên một bậc.
Bảng xếp hạng này do Z/Yen Group (Anh) và China Development Institute (Trung Quốc) thực hiện mỗi 6 tháng. Việt Nam chưa có thành phố nào có trong danh sách. Tại Đông Nam Á, cùng với Singapore còn có Kuala Lumpur (hạng 48) và Bangkok (hạng 58).
Nhìn lại quá trình này, Trường chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, đúc kết rằng sự phát triển của Singapore với tư cách là một trung tâm tài chính toàn cầu được thực hiện theo cách tiếp cận có hệ thống, với việc chính phủ đang thực hiện các bước chính sách tích cực nhằm thiết lập ngành dịch vụ tài chính ở đảo quốc.
Nguồn: VnExpress
"Này ông Van Oenen, chúng tôi muốn Singapore thành trung tâm tài chính của Đông Nam Á trong 10 năm nữa", TS. Albert Winsemius, Cố vấn kinh tế của Chính phủ Singapore nói khi gọi điện cho người bạn đang là Phó giám đốc chi nhánh của một ngân hàng Mỹ tại Singapore.
Van Oenen, người lúc này đang ở Anh, trả lời: "Được đấy, anh hãy đến London đi. Các anh có thể phát triển nó chỉ trong 5 năm". Đó là năm 1968.
Khi đến London, TS. Winsemius được Van Oenen đưa đến trước một quả địa cầu lớn đặt trong phòng họp ban giám đốc.
Chỉ tay lên đó, Van Oenen từ từ giải thích. Thế giới tài chính bắt đầu ở Zurich. Các ngân hàng Zurich mở cửa lúc 9 giờ sáng, sau đó là Frankfurt, rồi đến London. Buổi chiều Zurich đóng cửa, kế đến là Frankfurt, rồi lại đến London. Trong lúc ấy New York mở cửa. Vì thế, London chuyển giao dịch tài chính cho New York. Buổi chiều, New York đóng cửa và họ chuyển giao dịch sang San Francisco. Nhưng khi San Francisco đóng cửa thì thế giới chìm trong màn đêm.
"Không có gì xảy ra mãi cho đến 9 giờ sáng hôm sau (giờ Thụy Sĩ), đó là lúc các ngân hàng Thụy Sĩ mở cửa. Nếu đặt Singapore vào giữa, trước lúc San Francisco đóng cửa thì Singapore sẽ nắm quyền kiểm soát", ông Van Oenen gợi ý.
Cuộc trò chuyện này cũng được kể lại trong cuốn hồi ký của ông Lý Quang Diệu. Khi được TS. Albert Winsemius chia sẻ ý tưởng này, ông đang là Thủ tướng đương nhiệm Singapore và nhận ra mình phải làm gì.
"Không giống Hong Kong, Singapore không thể dựa trên danh tiếng của thành phố London là một trung tâm tài chính có lịch sử ngân hàng lâu đời, cũng như không thể dựa vào sự giúp đỡ của Ngân hàng Anh vốn tiêu biểu cho sự dày dạn kinh nghiệm, độ tin cậy và uy tín về mặt tài chính. Năm 1968, Singapore là một nước thuộc Thế giới thứ Ba", ông Lý Quang Diệu viết trong hồi ký.
Xây dựng 'hạ tầng mềm'
Điểm chú ý là chính phủ Singapore ngay từ đầu đã coi ngành dịch vụ tài chính không chỉ đơn giản là một phương tiện hỗ trợ sự phát triển của các ngành khác, mà là một trụ cột tăng trưởng. Để làm việc này, ông Lý Quang Diệu sử dụng cách tiếp cận "nhà nước kiến tạo phát triển" (developmental state). Theo đó, nhà nước xác định các ngành then chốt có thể đóng góp vào GDP và ban hành các chính sách phù hợp hỗ trợ nó.Ngay trong năm 1968, Singapore quyết định thành lập Thị trường Đôla châu Á (Asian Dollar Market - ADM). Cùng với Đơn vị tiền tệ châu Á (Asian Currency Unit - ACU) được thành lập song song, ADM đã cho phép các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài tham gia vào lĩnh vực dịch vụ tài chính của Singapore. Để ADM và ACU phát triển, ông Diệu tung ra các biện pháp khuyến khích và ưu đãi về thuế.
Ban đầu, ADM chủ yếu là thị trường liên ngân hàng ở Singapore, có khả năng nắm giữ các quỹ ngoại tệ của các ngân hàng nước ngoài rồi cho các ngân hàng trong khu vực vay và ngược lại. Sau đó, nó mua bán ngoại hối và những phát sinh tài chính bằng ngoại tệ gọi là trái khoản, đảm trách công việc cho vay, phát hành trái phiếu và quản lý vốn. ADM phát triển đến mức vượt hơn 500 tỷ USD, xấp xỉ gấp ba lần quy mô thị trường ngân hàng nội địa vào năm 1997.
Khi ngành dịch vụ tài chính của Singapore ngày càng phát triển phức tạp và quốc tế hóa với sự gia tăng của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, nhu cầu về cách tiếp cận hợp nhất hơn để quản lý và điều tiết ngành trở nên cấp thiết. Vì vậy Cơ quan tiền tệ Singapore ra đời năm 1971. Cơ quan này đóng hai vai trò là ngân hàng trung ương và quản lý tài chính.
Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SES) sau đó được thành lập vào năm 1973. SES tiếp tục được hợp nhất với Sở giao dịch tiền tệ quốc tế Singapore để tạo thành Sở giao dịch Singapore (SGX), nhằm đáp ứng sự đa dạng ngày càng tăng của thị trường vốn Singapore.
Việc hình thành MAS và SGX là một phản ứng thể chế với sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính của Singapore trong thời kỳ này. Cùng với đó, đảo quốc còn lập ra một số cơ quan liên quan đến tài chính khác, đưa nước này trải qua một thời kỳ quốc tế hóa và đa dạng hóa hơn nữa trong những năm 1980 và 1990.
Một yếu tố rõ ràng khác trong sự trỗi dậy của Singapore là khả năng của ông Lý Quang Diệu trong việc tận dụng lợi thế của những biến động tài chính toàn cầu. Điều này bắt đầu vào năm 1971 khi Mỹ tách đồng USD khỏi vàng. Ông đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội và đẩy mạnh hơn nữa việc Singapore thành trung tâm ngoại hối khu vực, tốn có nền tảng từ ADM và ACU.
"Trong những năm từ 1968 đến 1985, chúng tôi hầu như một mình một chợ trong khu vực, thu hút các cơ quan tài chính quốc tế bằng cách hủy bỏ thuế lợi tức đánh vào thu nhập lãi vay của khách gửi tiền không lưu trú. Mọi khoản tiền gửi bằng đồng đôla châu Á được miễn yêu cầu thanh toán và dự trữ pháp định", ông kể lại trong hồi ký.
"Trung tâm tài chính của chúng tôi đặt nền tảng trên luật lệ, với bộ máy tư pháp độc lập cùng một chính quyền ổn định, có năng lực và trong sạch, một chính quyền theo đuổi những chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, ngân sách hầu như bội thu hằng năm. Điều này đưa đến kết quả là đồng đôla Singapore mạnh và ổn định, cùng với tỷ giá hối đoái hợp lý đã ngăn chặn tình trạng lạm phát từ ngoài lan vào", hồi ký của ông Lý Quang Diệu viết.
Bằng những điều luật khắt khe và sự giám sát chặt chẽ, MAS đã giúp Singapore phát triển thành một trung tâm tài chính, tránh được hàng loạt vụ bê bối tài chính trong nhiều thập niên trên thế giới. Và để đáp lại sự cạnh tranh từ các ngân hàng quốc tế, MAS khuyến khích bốn ngân hàng địa phương lớn nhất – được biết như là "Big Four" – mua và sáp nhập với những ngân hàng địa phương nhỏ để trở nên lớn mạnh hơn. "Big Four" được Moody’s, xếp vào hàng những ngân hàng được đầu tư mạnh và tốt nhất trên thế giới.
Tuy nhiên, thời gian đó trung tâm tài chính của Singapore được đánh giá là bị kiểm soát quá mức so với trung tâm tài chính của Hong Kong. Ông Lý Quang Diệu lắng nghe nhưng không can thiệp vào bởi lẽ ông tin rằng họ cần có nhiều thời gian hơn để thiết lập vị trí và uy tín.
"Họ quên rằng lá cờ Anh và Ngân hàng Anh hậu thuẫn cho Hong Kong. Còn Singapore, không có được lưới bảo hiểm đó, nên không thể gượng dậy từ cùng một thất bại đầy kịch tính một cách dễ dàng tương tự. Singapore trước hết phải tự thiết lập danh tiếng của bản thân", ông nói.
Cùng với việc phát triển hạ tầng "mềm", Singapore cũng liên tục đầu tư phát triển hạ tầng cứng trong nhiều thập niên nhằm đáp ứng nhu cầu không gian của hàng nghìn tổ chức tài chính quy tụ về. Cuối những năm 1970, đề án xây dựng khu vực vịnh Marina rộng 360 ha ra đời để thay thế vai trò đã quá tải của Khu Thương mại Trung tâm (CBD) hiện hữu.
Cơ quan Tái phát triển Đô thị (URA), đặt tầm nhìn về Vịnh Marina là "một nơi phát triển 24/7, thịnh vượng và tràn đầy năng lượng, nơi mọi người sống, làm việc và vui chơi". Khu vực này ngay lập tức được khai hoang, cải tạo qua 7 giai đoạn, kéo dài đến năm 1993 thì cơ bản hoàn thành, tạo lập diện mạo của Vịnh Marina ngày nay với hàng loạt cao ốc văn phòng của các tổ chức tài chính quốc tế.
Đến những năm 1990, các khu thương mại mới, trung tâm bán lẻ, không gian hội nghị, khách sạn và một trung tâm nghệ thuật lớn mới bắt đầu mọc lên tại Marina Centre. "Kế hoạch cho Marina Bay là kịp thời khi nhiều năm phát triển ở khu thương mại trung tâm (CBD) đã không còn nhiều dư địa để tăng trưởng hơn nữa", Trường chính sách công Lý Quang Diệu nhận xét.
Nhờ có khu Marina, Singapore kịp thời đáp ứng được sự thay đổi trong ngành tài chính toàn cầu vào cuối những năm 1990. Khi ấy, các tổ chức lớn hơn yêu cầu các tấm sàn lớn hơn có không gian tiếp giáp và không có cột phải từ 1.400 m2 trở lên để đáp ứng các hoạt động của họ mà không bị dàn trải nhiều tầng.
Ngoài ra, do là một khu trung tâm đa tiện tích, những người làm việc trong lĩnh vực tài chính cũng đánh giá cao sự phát triển tích hợp có thể kết hợp văn phòng với các lựa chọn về lối sống và nhà ở chất lượng cao ở Vịnh Marina.
Đến 2014, Singapore là trung tâm ngoại hối lớn thứ tư trên thế giới và có khả năng cấp vốn bằng USD rất cao. Ngoài hàng trăm tập đoàn đa quốc gia sử dụng Singapore làm trụ sở khu vực, nơi đây còn có khoảng 4.000 công ty Trung Quốc chọn làm bệ phóng khi thâm nhập Đông Nam Á.
Vào những năm 90, Singapore thực sự trở thành một trong những trung tâm tài chính tầm cỡ thế giới với thị trường ngoại hối đứng hàng thứ tư sau London, New York và chỉ đứng sau Tokyo một chút. Nhưng đến đầu năm 1997, nhận thấy MAS bị trì trệ, ông Lý Quang Diệu đã vận động đưa ông Lý Hiển Long làm Chủ tịch MAS từ 1998.
Ngay khi tham gia, ông Long tiến hành từng bước để đẩy mạnh ngành quản lý tài sản và chỉnh sửa các điều luật quốc tế hóa đồng đôla Singapore, để đẩy mạnh mức tăng trưởng thị trường vốn. MAS khuyến khích SES (Sở Giao dịch Chứng khoán) và SIMEX (thị trường mua bán kỳ hạn) sáp nhập, thả nổi mức hoa hồng và quyền tiếp cận các sở giao dịch này.
MAS cũng tự do hóa việc thâm nhập vào khu vực ngân hàng nội địa bằng cách cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài mở thêm chi nhánh và các ATM. Nó tháo bỏ các hạn chế quyền sở hữu của nước ngoài về các cổ phần ngân hàng nội địa, trong khi yêu cầu các ngân hàng thành lập các ủy ban trong hội đồng quản trị, rập khuôn những cách tổ chức tương tự ở nhiều ngân hàng Mỹ.
"Chúng ta phải cố gắng hết sức để tạo ra sự khác biệt cho chính mình, như cung cấp chính trị và kinh tế ổn định, pháp quyền, cơ sở hạ tầng hiệu quả và lực lượng chuyên gia có tay nghề cao. Đây là những điểm đặc biệt, có lợi cho các hoạt động như quản lý tài sản. Chúng ta cần tìm ra những cách mới để tiếp thị chúng và mang lại hiệu quả kinh doanh", ông Lý Hiển Long nói vào tháng 10/2002, khi đang là Phó thủ tướng Singapore kiêm Chủ tịch MAS.
Theo hãng tư vấn Viettonkin Consulting, có 3 yếu tố then chốt đến Singapore trở thành một trung tâm tài chính.
Đầu tiên là chính sách, với quy định và sự giám sát chặt chẽ đã mang lại niềm tin cho nhà đầu tư. Điều này giúp Singapore ổn định tài chính, ngay cả trong tài chính toàn cầu 2007-2008.
Sự hỗ trợ từ chính phủ được cho là rất dồi dào, với các biện pháp khuyến khích nhằm thu hút nhiều người chơi hơn vào lĩnh vực tài chính và khuyến khích sự phát triển của lĩnh vực này. Ví dụ gần đây, để giúp giảm bớt tác động tiêu cực từ Covid-19 đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính và bảo hiểm, MAS đã công bố gói hỗ trợ 125 triệu USD cho các công ty trong lĩnh vực này.
Thứ hai, Singapore có một lượng lớn các chuyên gia tài chính. Để đảm bảo nguồn lao động có kỹ năng, Viện Ngân hàng và Tài chính Singapore (IBF) và Lực lượng Lao động Singapore (WSG) đã tham gia đào tạo cho các chuyên gia những bộ kỹ năng cần thiết giúp họ phát triển trong ngành.
Thứ ba là cơ sở hạ tầng kinh doanh. Các chi phí như tiền lương và thuê nhà ở đây đã tăng đều đặn. Tuy nhiên, giá thuê văn phòng tại Singapore vẫn thấp hơn so với các trung tâm tài chính đối thủ hàng đầu như London, New York, Hong Kong và Tokyo.
Trong khi nói về cơ sở hạ tầng, Singapore có một hệ thống giao thông công cộng hiệu quả và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tiên tiến. Họ đứng hàng đầu thế giới về cơ sở hạ tầng giao thông, cũng là một trung tâm hàng không nổi tiếng và trung tâm cảng sầm uất.
"Chúng tôi phải mất 30 năm kể từ lúc mở thị trường đồng đôla châu Á đầu tiên vào năm 1968 để thiết lập uy tín là một trung tâm tài chính quốc tế được quản lý một cách đúng đắn", ông Lý Quang Diệu viết trong hồi ký.
Ngày nay, vị thế trung tâm tài chính mà vị cố thủ tướng này tạo lập vẫn liên tục được củng cố. Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu (Global Financial Centres Index) cập nhật đến tháng 9/2021 xếp Singapore là trung tâm tài chính ảnh hưởng lớn thứ tư thế giới, sau New York, London, và Hong Kong. So với lần xếp hạng liền trước vào tháng 3/2021, thứ hạng của Singapre tiếp tục tăng lên một bậc.
Bảng xếp hạng này do Z/Yen Group (Anh) và China Development Institute (Trung Quốc) thực hiện mỗi 6 tháng. Việt Nam chưa có thành phố nào có trong danh sách. Tại Đông Nam Á, cùng với Singapore còn có Kuala Lumpur (hạng 48) và Bangkok (hạng 58).
Nhìn lại quá trình này, Trường chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, đúc kết rằng sự phát triển của Singapore với tư cách là một trung tâm tài chính toàn cầu được thực hiện theo cách tiếp cận có hệ thống, với việc chính phủ đang thực hiện các bước chính sách tích cực nhằm thiết lập ngành dịch vụ tài chính ở đảo quốc.
Nguồn: VnExpress