Tăng cường xạ trị trong điều trị tân bổ trợ có thể hỗ trợ điều trị ung thư trực tràng

Mr Bens
Mr Bens
Phản hồi: 0

Mr Bens

Writer
Trong điều trị ung thư trực tràng tiến triển, xạ trị kết hợp hóa trị trước phẫu thuật được áp dụng nhằm giảm kích thước khối u và hạ giai đoạn bệnh, mặc dù khoảng 20–30% bệnh nhân vẫn có thể phát triển di căn. Nghiên cứu đa trung tâm với 1028 bệnh nhân (cT2–cT4 hoặc cN0–cN2, tuổi trung bình 65) từ 12 trung tâm đã được tiến hành để so sánh hiệu quả và độc tính của liều xạ tiêu chuẩn và liều xạ tăng cường trong bối cảnh điều trị tân bổ trợ. Cụ thể, 664 bệnh nhân nhận liều xạ tiêu chuẩn từ 44,25 đến 50,00 Gy (trung bình 49,56 Gy), trong khi 364 bệnh nhân được điều trị bằng liều xạ tăng cường từ 55,92 đến 60,00 Gy (trung bình 55,92 Gy).

Kết quả được đánh giá qua bốn mốc thời gian khác nhau: ≤7 tuần, 8–10 tuần, 11–12 tuần và ≥13 tuần sau khi kết thúc điều trị. Điểm cuối chính của nghiên cứu là tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về mặt bệnh lý (pCR), đồng thời cũng theo dõi hạ giai đoạn bệnh, thời gian đến phẫu thuật và các biến cố bất lợi. Kết quả cho thấy tổng thể pCR đạt 21,5%, nhưng nhóm liều tăng cường có tỷ lệ pCR cao hơn (26,6% so với 17,0% của nhóm tiêu chuẩn). Đặc biệt, khi thời gian đến phẫu thuật tăng từ ≤7 tuần lên 8–10 tuần, tỷ lệ pCR tăng gấp đôi ở cả hai nhóm; tại mốc ≥13 tuần, nhóm tăng cường đạt pCR 39,3% so với 20,4% ở nhóm tiêu chuẩn.
1739259677064.png

Đối với các bệnh nhân có khối u cT3 và cT4, liều tăng cường cho kết quả pCR cao hơn đáng kể (đối với cT3, 25,7% so với 17,3%; đối với cT4, 29,7% so với 5,4%), trong khi đối với bệnh nhân cT2 thì không có sự khác biệt rõ rệt. Ngoài ra, 63,5% bệnh nhân ở nhóm tăng cường có hạ giai đoạn bệnh so với 51,0% ở nhóm tiêu chuẩn. Tuy nhiên, việc tăng cường liều xạ cũng đi kèm với độc tính cấp tính cao hơn, đặc biệt về đường tiêu hóa (6,0% so với 1,7%), da (2,2% so với 0,5%) và huyết học (0,5% so với 0,4%).

Những phát hiện này cho thấy tăng cường liều xạ trị trong điều trị tân bổ trợ cho ung thư trực tràng tiến triển có thể cải thiện đáng kể đáp ứng hoàn toàn về mặt bệnh lý, đặc biệt ở các bệnh nhân có khối u cT3 và cT4 và khi thời gian đến phẫu thuật được kéo dài. Tuy nhiên, phương pháp này cũng gây ra mức độ độc tính cao hơn ở một số bệnh nhân. Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm thiết kế hồi cứu có thể gây sai lệch, sự khác nhau trong thực hành lâm sàng giữa các trung tâm và việc thiếu dữ liệu về độc tính sau phẫu thuật cũng như độc tính muộn, làm cho đánh giá an toàn lâu dài còn hạn chế. Nghiên cứu được chỉ đạo bởi Luca Nicosia và được công bố trên tạp chí “Xạ trị và Ung thư”, với thông tin rằng các tác giả không tiết lộ nguồn tài trợ hay mối quan hệ lợi ích tài chính nào ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu.
Nguồn: Medscape.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Top