VNR Content
Pearl
Toyota Innova mẫu xe đa dụng châu Á (Asian Utility Vehicle, AUV) từng làm mưa làm gió ở nhiều showroom trên khắp thế giới, nay lụi tàn như những chú khủng long trước sao chổi. Tại sao?
Thật vậy, dòng xe AUV chưa bao giờ cải tiến để đáp ứng những sở thích đang thay đổi từng ngày của người tiêu dùng, hoặc ít nhất cũng cạnh tranh tốt hơn với làn sóng crossover và SUV mạnh mẽ với giá bán ngày một tốt hơn. Mũi tên cuối cùng bắn rụng AUV là khi các tiêu chuẩn khí thải Euro-4 đi vào hiệu lực.
Đó là câu chuyện có thật. Thời đại của những chiếc AUV đã chấm hết. Trừ một cái tên như Toyota Innova.
Nếu đang sở hữu một chiếc Innova, bạn có lẽ sẽ tự ái trước việc mẫu xe yêu thích của mình bị gọi là AUV, nhưng cách gọi này hoàn toàn không nhằm hạ thấp Innova. Chính việc được phát triển từ AUV là lý do lớn giải thích tại sao nó lại bền bỉ đến vậy. Innova là sự kết hợp hoàn hảo giữa một chiếc xe sử dụng khung gầm sắt-xi rời cứng cáp và vẻ lôi cuốn của một chiếc xe đa dụng (MPV) hiện đại, hay một chiếc minivan.
Thế hệ đầu tiên của Innova đã lỗi thời từ năm 2016, dọn đường cho thế hệ thứ hai, chính là thế hệ mà chúng ta sắp đề cập đến ở đây.
Không phải ai cũng hài lòng với thiết kế của Innova thế hệ 2, bởi nó trông cục mịch và có phần kém thu hút. Có lẽ vì vậy, Toyota đã giới thiệu gói Touring Sport để giúp mẫu xe của họ trông bớt nhàm chán hơn.
Đèn pha sau của mẫu xe này có thể được nhận xét bằng từ “ổn” và lưới tản nhiệt cũng vậy, nhưng cách Toyota thiết kế phần dưới của cản trước khiến người ta liên tưởng đến phần đầu nhô ra của một chiếc phà.
Cột D hình tam giác kỳ quặc trông như lấy từ chiếc Ssangyong Stavic/Rodius đời đầu vậy. Cặp đèn hậu của xe thì gây tranh cãi không kém đèn hậu của Mitsubishi Montero Sport đời 3.
May thay, Toyota đã tung ra một bản cập nhật cho Innova vào đầu năm nay, nhưng để tìm ra những thay đổi của mẫu xe này là cả một vấn đề. Cản trước không còn giống đầu phà nữa nhờ lưới tản nhiệt mới và phần dưới cũng khác theo. Viền mạ chrome quanh lưới tản nhiệt trông khá đẹp và đèn pha lẫn đèn sương mù mới đều được hoàn thiện chỉn chu.
Mặt bên của xe không thay đổi nhiều ngoại trừ thiết kế la-zăng. Phía trên biển số là một dải trang trí lẽ ra Toyota nên làm dải này màu chrome, nhưng họ lại chọn màu đen không mấy hút mắt.
Đó là tất cả những gì có thể nói về ngoại thất và khó hiểu là nội thất còn ít thay đổi hơn. Thực tế thì số thay đổi chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bảng táp-lô, màu sắc, tính năng, vô-lăng… đều như được bê nguyên xi từ mẫu Innova V đã ra mắt từ năm 2016.
Có 2 thay đổi dễ nhận thấy nếu bạn quan sát kỹ phần táp-lô. Một thay đổi nữa là hệ thống âm thanh. Màn hình giải trí kích thước 7-inch và hỗ trợ Apple Carplay lẫn Android Auto. Tất nhiên nó cũng có kết nối Bluetooth và kết nối đến 6 cụm loa đặt trong xe. Những tính năng khác bao gồm hệ thống điều hoà với khe gió trên trần và đèn khoang xe theo phong cách máy bay. Ngoài ra, sự tiện dụng của Innova còn thể hiện qua những khay đựng cốc nước ở hộc đồ phía trước.
Danh sách các tiêu chuẩn an toàn cũng khá tốt. Innova 2.8 V 6AT (2021) không có tính năng Toyota Safety Sense (như trên Fortuner, Corolla Cross Hybrid…), nhưng được trang bị đến 7 túi khí (túi khí thứ 7 đặt ở khu vực đầu gối của người lái), hệ thống kiểm soát cân bằng, phanh chống khoá cứng, và nhiều thứ khác.
Mặc dù, là thế hệ mới nhưng điểm khó thay đổi nhất ở trên Innova là ghế bọc chất liệu nỉ thay vì sử dụng da. Đây là điểm mà nhiều người cảm thấy chưa thực sự "ưng" trên mẫu xe này.
Cách bố trí ghế ngồi cũng tương tự như mẫu Innova V trước đây, và hàng ghế thoải mái nhất chính là hàng giữa, với khoảng để chân rộng rãi, có tì tay mang lại sự thoải mái trên những chuyến đi dài. Xe không có bệ gác chân hay cửa trượt như Alphard, nhưng chẳng vấn đề gì. Điều khách hàng thích chính là khoảng sáng gầm xe, bởi các hành khách lớn tuổi sẽ không phải vất vả cúi người khi vào xe nữa.
Hàng ghế thứ ba không thay đổi so với trước đây, vẫn là ghế dài ba người ngồi. Innova 2.8 V 6AT (2021) là mẫu xe 7 chỗ với bố cục ghế ngồi 2-2-3. Trong khi các mẫu thấp hơn, không có hàng ghế giữa với tì tay, thuộc loại 8 chỗ với bố cục 2-3-3, nhưng dù gì đi nữa thì hàng ghế thứ ba cũng chỉ thoải mái nhất khi có 2 người ngồi mà thôi. Vị trí ghế giữa của hàng ghế thứ ba không thực sự tối ưu cho người trưởng thành bởi không gian ngồi khá hẹp.
Nếu bạn không cần chở tối đa và muốn có thêm không gian chứa đồ, thì Innova được sinh ra cho tình huống này. Hàng ghế thứ ba có thể gập lên hoặc xuống để tăng tối đa không gian chứa đồ. Hàng ghế giữa cũng có thể gập xuống nếu bạn vẫn chưa thoả mãn với không gian trống phía sau.
Cơ chế của hàng ghế thứ ba tốt hơn nhiều so với thế hệ đầu tiên bởi nó sử dụng lò xo để dễ dàng bật lên hơn. Tuy nhiên, do Toyota chưa thiết kế hệ thống gập phẳng (xuống sàn xe) do giới hạn của nền tảng khung sắt-xi rời, nên dù gập lên, hàng ghế sau vẫn chiếm đôi chút diện tích.
Trái tim của Innova 2.8 V 6AT (2021) là động cơ 4 xy-lanh 1GD-FTV 2.8 L. Trên thực tế, mọi mẫu xe thuộc dòng Innova hiện nay đều sẽ được trang bị động cơ diesel tăng áp 1GD-FTV bởi Toyota đã ngừng sử dụng động cơ xăng VVT-i 2.0 L vốn không tối ưu về mặt hiệu năng và khả năng tiết kiệm nhiên liệu khi xét đến cân nặng và số lượng người ngồi trên xe.
Với các dòng Fortuner và Hilux, động cơ 1GD sản sinh công suất 204 PS và mô-men xoắn 500 Nm. Trên Innova V, cũng động cơ đó sản sinh công suất 174 PS và mô-men xoắn 360 Nm với hệ thống dẫn động cầu sau, hộp số tự động 6 cấp. Dù không mạnh mẽ bằng, nhưng đừng quên Hilux và Fortuner là những mẫu xe khá nặng so với Innova.
Động cơ 174 PS/ 360 Nm được trang bị cho mọi phiên bản số tự động khác, còn phiên bản số sàn 5 cấp sẽ là 170 PS/ 343 Nm. Hai tuỳ chọn động cơ này là cách làm quen thuộc của Toyota kể từ thế hệ Innova đầu tiên sử dụng động cơ diesel tăng áp 2KD-FTV 2.5 L, các phiên bản AT có mô-men xoắn 260 Nm, trong khi MT có mô-men xoắn 200 Nm.
Tuy nhiên, khi lái trong đô thị, sự khác biệt là hầu như không nhiều. Nếu xe có thêm một cấp số để đi cao tốc thì tốt biết bao, nhưng đi trong đô thị như vậy là ổn. Với phiên bản tự động, bạn sẽ không cần quan tâm đến những thứ đó.
Hệ thống cơ khí cũng như hệ thống treo không có nhiều nâng cấp đáng nhắc đến. Cơ chế vận hành của hệ thống treo và phanh đều như các thế hệ trước.
Toyota nên làm tốt hơn hệ thống cách âm trên Innova. Trải nghiệm thực tế không đến mức quá khó chịu, nhưng hệ thống cách âm của Innova V không hiệu quả trước những tiếng ồn lớn từ các hệ thống giảm thanh đã qua chỉnh sửa hoặc hao mòn (của xe máy, xe jeep, xe tải…). Tiếng ồn từ lốp và hệ thống treo khi vận hành trên mặt đường cứng, gồ ghề, có thể xuyên qua và vọng vào khoang xe kể cả khi bạn chỉ chạy ở khoảng 60 km/h.
Trên những cung đường bằng phẳng hơn, vấn đề không quá nghiêm trọng, Innova V hoạt động êm ái dù bạn là người cầm lái hay đang ngồi hàng ghế sau. Khả năng tiết kiệm nhiên liệu cũng đáng nể trong thành phố với tốc độ trung bình 21 km/h, mức tiêu thụ nhiên liệu là 12,3 km/l dầu. Trên cao tốc với tốc độ trung bình 72 km/h, con số này là 18,3 km/l. Innova đạt được kết quả đó là bởi nó có thể vận hành ở tốc độ vòng tua thấp khi mà mô-men xoắn sẽ hoạt động ở mức 1200.
Dẫu vậy, Innova V vẫn có một loạt điểm chưa tốt, nhưng chúng ta nên xét đến chúng trong mối tương quan với giá bán. Toyota bán Innova 2.8V 2021 giá khoảng 960 triệu VNĐ. Với giá này, bạn không có hệ thống camera 360 độ, không cruise control, không có ghế tài chỉnh điện, không có bệ gác chân cho hàng ghế giữa, hàng ghế thứ 3 không gập phẳng được, và không có ghế bọc da. Ngoài ra, một thiếu sót khác là cổng USB!
Bàn để đồ dành cho hàng ghế thứ hai khá tiện lợi, nhưng nhìn chung không có điểm gì trên Innova 2.8V 2021 vượt trội so với mẫu V ra mắt năm 2016. Và có lẽ Toyota nên biết rằng hiện nay, Innova đã không còn là vị vua MPV nữa rồi.
Đáng nói hơn nữa, bạn có thể mua được một mẫu PPV tầm trung với hộp số tự động cùng giá với Innova V. Ví dụ: Ford Everest Trend, Mitsubishi Montero Sport GLS, hay thậm chí là Fortuner G của chính Toyota.
Tất nhiên, Toyota có một số ưu điểm mà những hãng khác không có, như giá trị bán lại, giá bán linh phụ kiện trên thị trường và độ ổn định. Khi bạn mua Toyota, bạn có thể tiếp cận một hệ sinh thái linh phụ kiện cực kỳ đa dạng, khiến việc bảo trì bảo dưỡng và cá nhân hoá xe trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Nhưng liệu điều đó có xứng đáng để bạn bỏ ra một khoản tiền khá lớn lúc ban đầu?
Innova là một mẫu xe tốt, vấn đề duy nhất của nó là các đối thủ cũng có thể làm điều tương tự và họ cố gắng để cải tiến hơn nhiều so với Toyota. Innova có lẽ không lâm nguy như những mẫu AUV đi trước, nhưng nó chắc chắn cần phải thay đổi nếu muốn tồn tại.
Tham khảo: AutoIndustriya
Thật vậy, dòng xe AUV chưa bao giờ cải tiến để đáp ứng những sở thích đang thay đổi từng ngày của người tiêu dùng, hoặc ít nhất cũng cạnh tranh tốt hơn với làn sóng crossover và SUV mạnh mẽ với giá bán ngày một tốt hơn. Mũi tên cuối cùng bắn rụng AUV là khi các tiêu chuẩn khí thải Euro-4 đi vào hiệu lực.
Đó là câu chuyện có thật. Thời đại của những chiếc AUV đã chấm hết. Trừ một cái tên như Toyota Innova.
Thế hệ đầu tiên của Innova đã lỗi thời từ năm 2016, dọn đường cho thế hệ thứ hai, chính là thế hệ mà chúng ta sắp đề cập đến ở đây.
Không phải ai cũng hài lòng với thiết kế của Innova thế hệ 2, bởi nó trông cục mịch và có phần kém thu hút. Có lẽ vì vậy, Toyota đã giới thiệu gói Touring Sport để giúp mẫu xe của họ trông bớt nhàm chán hơn.
Đèn pha sau của mẫu xe này có thể được nhận xét bằng từ “ổn” và lưới tản nhiệt cũng vậy, nhưng cách Toyota thiết kế phần dưới của cản trước khiến người ta liên tưởng đến phần đầu nhô ra của một chiếc phà.
Cột D hình tam giác kỳ quặc trông như lấy từ chiếc Ssangyong Stavic/Rodius đời đầu vậy. Cặp đèn hậu của xe thì gây tranh cãi không kém đèn hậu của Mitsubishi Montero Sport đời 3.
Mặt bên của xe không thay đổi nhiều ngoại trừ thiết kế la-zăng. Phía trên biển số là một dải trang trí lẽ ra Toyota nên làm dải này màu chrome, nhưng họ lại chọn màu đen không mấy hút mắt.
Có 2 thay đổi dễ nhận thấy nếu bạn quan sát kỹ phần táp-lô. Một thay đổi nữa là hệ thống âm thanh. Màn hình giải trí kích thước 7-inch và hỗ trợ Apple Carplay lẫn Android Auto. Tất nhiên nó cũng có kết nối Bluetooth và kết nối đến 6 cụm loa đặt trong xe. Những tính năng khác bao gồm hệ thống điều hoà với khe gió trên trần và đèn khoang xe theo phong cách máy bay. Ngoài ra, sự tiện dụng của Innova còn thể hiện qua những khay đựng cốc nước ở hộc đồ phía trước.
Mặc dù, là thế hệ mới nhưng điểm khó thay đổi nhất ở trên Innova là ghế bọc chất liệu nỉ thay vì sử dụng da. Đây là điểm mà nhiều người cảm thấy chưa thực sự "ưng" trên mẫu xe này.
Nếu bạn không cần chở tối đa và muốn có thêm không gian chứa đồ, thì Innova được sinh ra cho tình huống này. Hàng ghế thứ ba có thể gập lên hoặc xuống để tăng tối đa không gian chứa đồ. Hàng ghế giữa cũng có thể gập xuống nếu bạn vẫn chưa thoả mãn với không gian trống phía sau.
Trái tim của Innova 2.8 V 6AT (2021) là động cơ 4 xy-lanh 1GD-FTV 2.8 L. Trên thực tế, mọi mẫu xe thuộc dòng Innova hiện nay đều sẽ được trang bị động cơ diesel tăng áp 1GD-FTV bởi Toyota đã ngừng sử dụng động cơ xăng VVT-i 2.0 L vốn không tối ưu về mặt hiệu năng và khả năng tiết kiệm nhiên liệu khi xét đến cân nặng và số lượng người ngồi trên xe.
Động cơ 174 PS/ 360 Nm được trang bị cho mọi phiên bản số tự động khác, còn phiên bản số sàn 5 cấp sẽ là 170 PS/ 343 Nm. Hai tuỳ chọn động cơ này là cách làm quen thuộc của Toyota kể từ thế hệ Innova đầu tiên sử dụng động cơ diesel tăng áp 2KD-FTV 2.5 L, các phiên bản AT có mô-men xoắn 260 Nm, trong khi MT có mô-men xoắn 200 Nm.
Tuy nhiên, khi lái trong đô thị, sự khác biệt là hầu như không nhiều. Nếu xe có thêm một cấp số để đi cao tốc thì tốt biết bao, nhưng đi trong đô thị như vậy là ổn. Với phiên bản tự động, bạn sẽ không cần quan tâm đến những thứ đó.
Hệ thống cơ khí cũng như hệ thống treo không có nhiều nâng cấp đáng nhắc đến. Cơ chế vận hành của hệ thống treo và phanh đều như các thế hệ trước.
Toyota nên làm tốt hơn hệ thống cách âm trên Innova. Trải nghiệm thực tế không đến mức quá khó chịu, nhưng hệ thống cách âm của Innova V không hiệu quả trước những tiếng ồn lớn từ các hệ thống giảm thanh đã qua chỉnh sửa hoặc hao mòn (của xe máy, xe jeep, xe tải…). Tiếng ồn từ lốp và hệ thống treo khi vận hành trên mặt đường cứng, gồ ghề, có thể xuyên qua và vọng vào khoang xe kể cả khi bạn chỉ chạy ở khoảng 60 km/h.
Trên những cung đường bằng phẳng hơn, vấn đề không quá nghiêm trọng, Innova V hoạt động êm ái dù bạn là người cầm lái hay đang ngồi hàng ghế sau. Khả năng tiết kiệm nhiên liệu cũng đáng nể trong thành phố với tốc độ trung bình 21 km/h, mức tiêu thụ nhiên liệu là 12,3 km/l dầu. Trên cao tốc với tốc độ trung bình 72 km/h, con số này là 18,3 km/l. Innova đạt được kết quả đó là bởi nó có thể vận hành ở tốc độ vòng tua thấp khi mà mô-men xoắn sẽ hoạt động ở mức 1200.
Bàn để đồ dành cho hàng ghế thứ hai khá tiện lợi, nhưng nhìn chung không có điểm gì trên Innova 2.8V 2021 vượt trội so với mẫu V ra mắt năm 2016. Và có lẽ Toyota nên biết rằng hiện nay, Innova đã không còn là vị vua MPV nữa rồi.
Đáng nói hơn nữa, bạn có thể mua được một mẫu PPV tầm trung với hộp số tự động cùng giá với Innova V. Ví dụ: Ford Everest Trend, Mitsubishi Montero Sport GLS, hay thậm chí là Fortuner G của chính Toyota.
Innova là một mẫu xe tốt, vấn đề duy nhất của nó là các đối thủ cũng có thể làm điều tương tự và họ cố gắng để cải tiến hơn nhiều so với Toyota. Innova có lẽ không lâm nguy như những mẫu AUV đi trước, nhưng nó chắc chắn cần phải thay đổi nếu muốn tồn tại.
Tham khảo: AutoIndustriya