Đố bạn: Ai là người đặt quốc hiệu nước ta là "Việt Nam"?

Hai tiếng Việt Nam là quốc hiệu của nước ta, dùng để phân biệt với các nước khác trên thế giới.
Theo quan niệm Việt Nam là tên gọi của sự kết hợp nòi giống và vị trí địa lý (Việt Nam – người Việt sinh sống ở phương nam); thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập, tự chủ và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Vậy, tên gọi này xuất hiện từ khi nào?
Hai tiếng Việt Nam dưới thời phong kiến
Sau khi lên ngôi vua vào năm 1802, ngoài việc ổn định về mặt tổ chức của vương triều thì vua Gia Long còn có một mối quan tâm rất lớn là đặt quốc hiệu đất nước để khẳng định sự chính thống của một triều đại mới.
Đố bạn: Ai là người đặt quốc hiệu nước ta là Việt Nam?
Chân dung vua Gia Long
Cùng năm, nhà Nguyễn cử một phái đoàn sang Trung Quốc do Thượng thư Bộ Binh Lê Quang Định làm Chánh sứ, xin phong vương cho vua Nguyễn Ánh và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt.
Tuy vậy, nhà Thanh sợ vương triều Nguyễn dựa vào quốc hiệu Nam Việt để đòi phần lãnh thổ rộng lớn từ thời cổ đại trước kia (lãnh thổ Việt Nam thời Triệu phía bắc giáp sông Dương Tử, phía nam giới hạn Đèo Ngang, phía tây là Tứ Xuyên; tức là bao gồm vùng Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc, nơi sinh sống của khối cư dân Bách Việt); nên đã gửi cho vua Nguyễn bức thư, có đoạn viết:
“…Nên lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ở bờ cõi Nam giao ... Tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa vốn xưa đã có tên là Nam Việt lại phân biệt được ra”
Nhận được sắc phong, tháng 2 năm Giáp Tý 1804, vua Gia Long ban chiếu đặt quốc hiệu mới là Việt Nam. Trong chiếu chỉ có ghi:
Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước… nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa.
Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”....

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách là quốc hiệu và được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao.
Tuy nhiên, cái tên Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ XIV, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) nhiều lần nhắc đến 2 chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền".
Người ta cũng tìm thấy 2 chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
Danh xưng Việt Nam hiện nay
Từ giữa thế kỷ XIX, nước ta bị ách đô hộ của thực dân Pháp; bọn chúng thường gọi nhân dân ta là “dân An Nam” để chỉ sự miệt thị, khi bỉ và coi thường.
Hai tiếng Việt Nam chưa xuất hiện chính thức, song đã được các nhà sử học, các trí sĩ yêu nước đặt tên cho nhiều tổ chức chính trị, và nhiều tác phẩm với mục tiêu đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập cho dân tộc:
Phan Bội Châu cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (năm 1941)…
Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Phan Chu Trinh viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược…
Đố bạn: Ai là người đặt quốc hiệu nước ta là Việt Nam?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945
Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công; ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì quốc hiệu Việt Nam mới chính thức được công nhận.
Từ đây, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Thành viên mới đăng
Top