Khả năng "tâm lý chiến" của Gia Cát Lượng đúng là chỉ có trong... tiểu thuyết

Checker

Writer
"Tâm lý chiến" là nghệ thuật tác động đến tâm lý, tư tưởng của đối phương, khiến họ hoang mang, dao động, từ đó đưa ra những quyết định sai lầm, có lợi cho ta.

Nhắc đến Gia Cát Lượng , người ta thường nghĩ ngay đến một nhà chiến lược lỗi lạc với trí tuệ phi thường và tài thao lược xuất chúng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, bên cạnh tài năng quân sự, Gia Cát Lượng còn sở hữu khả năng "tâm lý chiến" vô cùng suất sắc, góp phần quan trọng vào những chiến thắng vang dội của ông, đến nỗi ngày nay người ta vẫn nghĩ nó chỉ có trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa.

1715829477279.png

Dưới đây là một số ví dụ:

Mắng chết Tư đồ Vương Lãng trước ba quân​

Năm Kiến Hưng thứ năm nhà Thục Hán (dưới thời Lưu Thiện), Gia Cát Lượng cất quân Bắc phạt. Đô đốc nước Nguỵ là Tào Chân cùng với quân sư là Vương Lãng bấy giờ đã 76 tuổi, đem 20 vạn quân Nguỵ ra chống cự. Hai bên dàn quân, Vương Lãng sai mời Gia Cát Lượng ra trước trận nói chuyện.

Vương Lãng muốn dùng 3 tấc lưỡi để dạy đời và chiêu hàng Gia Cát Lượng. Sau khi nghe Vương Lãng nói hết, Gia Cát Lượng phe phẩy quạt lông, cứng rắn đáp lời:

Ta tưởng ông là lão thần nhà Hán. Trước ba quân tướng sĩ dâng hiến cao luận gì. Nào ngờ, ông dám thở ra những lời lẽ thô bỉ, hôi thối đến thế. Tôi có mấy lời xin chư vị lắng nghe:

Trước đây dưới thời Hoàn Đế, Linh Đế, giường cột nhà Hán rối tung, hoạn quan gây họa, giặc cướp hoành hành, bốn phương hỗn loạn. Tiếp đó, Đổng Trác, Quách Dĩnh, Lý Thôi thừa dịp nổi lên ức hiếp thiên tử, tàn hại sinh linh. Vì vậy chỗ Triều đình gỗ mục làm quan, nơi cung cấm cầm thú ăn lộc, một lũ sói lang chấp chính cầm quyền, nên xã tắc biến thành gò hoang, trăm họ dân lành điêu linh thống khổ. Trong cơn quốc nạn đó, quan tư đồ Vương Lãng đã làm gì?

Hành tung Vương Tư đồ ta còn lạ gì. Ông ra đời ven bờ Đông Hải, lấy danh nghĩa ‘hiếu liêm’ mà bước lên chốn quan trường. Là bề tôi nhà Hán, đáng lẽ ông phải góp sức yên dân, khôi phục chính thống, dựng lại hộ Lưu. Nhưng không, ông đã hùa theo nghịch tặc, đồng mưu cướp ngôi, tội ác chất chồng, trời đất không dung.


Vương Lãng nghẹn lời: “Tên thôn phu Gia Cát Lượng mi dám…

Gia Cát Lượng thấy kế tâm lý chiến của mình quả thực đã phát huy tác dụng đúng như ý, bèn bồi tiếp:

Câm ngay! Tên giặc già vô liêm sỉ. Ngươi không biết muôn dân khắp bốn cõi đang muốn xé xác, moi gan mi sao còn múa mép. Chiêu Liệt hoàng đế ta nối dựng đại Thục ở Tây Xuyên. Nay ta vâng chiếu chỉ tự quân xuất nghĩa phạt tặc. Kẻ đớn hèn, xu nịnh như mi như rùa rụt cổ khom lưng cầu xin bát cơm thừa, manh áo cũ cho xong sao còn dám ra trước hàng quân mà nói năng càn rỡ, đổi tại số trời. Tên thất phu đầu bạc, tên giặc già râu trắng kia. Nay mai dưới suối vàng mi còn mặt mũi nào mà thấy 24 tiên đế nhà Hán ta. Tên nghịch tặc nhục nhã, mi sống uổng 76 năm trời, mồm nói Thuấn, Nghiêu mà bán mình cho Tào Tháo. Mi không biết thân phận khuyển ưng mà ra trước hàng quân nói năng càn rỡ. Xưa nay ta chưa thấy ai mặt dày vô liêm sỉ như ngươi!

Nói tới đây, Vương Lãng uất giận, hú lên một tiếng mà ngã đột tử dưới chân ngựa. Tất thảy ba quân đều kinh hãi, tướng Nguỵ là Tào Chân thất kinh, còn Gia Cát Lượng thì ngồi xuống, nở một nụ cười nhẹ nhàng, tay khuơ quạt nhìn kết quả.

Gia Cát Lượng thấy gì? Trận này hoàn toàn có thể thắng được bằng nghệ thuật tâm lý chiến khi sử dụng “ba tấc lưỡi”. Lý do là vì, thứ nhất, địch quân sử dụng phép ‘chiêu hàng’ bằng võ miệng chứ không phải là bằng võ lực. Và đối thủ lần này không phải là Tào Chân, mà là tư đồ Vương Lãng.

Vương Lãng là lão thần 2 triều (Hán – Nguỵ). Đây là “điểm chết” của ông, đi ngược lại câu: “Tôi trung không thờ hai chủ“, thực sự là kẻ bất trung! Mặc dù rất nhiều người đều hiểu: “Kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt“. Thế nhưng, trên chiến trường để đạt được mục đích của mình, Khổng Minh đã cố tình bỏ qua điều đó, chỉ tập trung vào chữ “Trung” mà thôi. Vương Lãng là một lão thần 76 tuổi già nua, sức khoẻ không đảm bảo nếu như bị kích động thái quá. Gia Cát Lượng không cần đọ sức bằng võ lực, chỉ cần dùng đòn tâm lý là đủ.

Xác định được mạnh – yếu của đối thủ rồi từ đó ra đòn quyết định, đó là cách hành xử của một người am hiểu binh thư. Với nghệ thuật diễn xuất, lý luận bậc thầy và miệng lưỡi sắc bén, như ngàn mũi giáo, mũi gươm, Gia Cát Lượng đã hạ gục quân sư của kẻ địch chỉ trong nháy mắt, làm kẻ địch vừa thiệt tướng, vừa mất tinh thần dẫn đến đại bại.

Thổi bay 15 vạn quân Tào chỉ bằng một tiếng đàn

Trong cuộc Bắc phạt lần đầu, Mã Tốc làm mất Nhai Đình, đường vận lương cung ứng cho quân đội bị cắt khiến Gia Cát Lượng đành ra lệnh rút quân. Trước khi rút, ông ra Tây Thành để vận chuyển nốt 20 vạn thạch lương còn lại. Binh sỹ đi theo ngoài bộ tướng Khương Duy với 300 giáp sĩ hộ vệ chỉ còn lại 2000 binh sỹ già yếu.

Vận lương Tây Thành chưa xong, Tư Mã Ý đột nhiên kéo đại binh đến. Khói bụi mù trời, Khương Duy kiến nghị nhanh chóng rời bỏ Tây Thành tháo chạy về Thục. Nhưng Gia Cát Lượng cho rằng chạy tất chết không thể nào thoát khỏi thiết kỵ của Tư Mã Ý được.

Lượng quyết định đánh cược một phen với trời về số phận của chính mình. Quân Thục mở tung cổng thành, cắt mấy chục lính làm dân phu, lùa súc vật đi ăn cỏ, và quét cổng thành cho sạch sẽ gọn gàng, bản thân Gia Cát Lượng ôm đàn lên lầu độc tấu thất huyền cầm chống hùng binh Tư Mã Ý.

Ý dẫn quân kéo đến Tây Thành, thấy phong cảnh như vậy lấy làm lạ, đăm chiêu nghe Gia Cát Lượng gẩy đàn một lúc, rồi hạ lệnh đổi tiền quân làm hậu quân nhanh chóng tháo lui.

Tư Mã Chiêu (con Tư Mã Ý) bảo: “Ngộ nhỡ Gia Cát Lượng không có quân, bày ra thế thì sao?”. Ý nói rằng: “Tiếng đàn tranh này mạnh bạo giống như sóng ba đào, cuồn cuộn nổi lên, tựa như là có bá vạn hùng binh… giống như là dòng suối róc rách, nếu như không là người tinh ý chắc chắn không thể ngờ được”.

Tư Mã Chiêu lại hỏi: “Thưa cha, chỉ là mấy sợi dây đàn, có thể truyền thần tới vậy sao chứ?”. Ý trả lời: “Tâm loạn, tiếng đàn sẽ rối loạn, tâm tịnh, tiếng đàn sẽ yên tịnh thôi, tâm loạn thì âm loạn, tâm tịnh thì âm sắc. Nghe Gia Cát Lượng đánh đàn, nhìn thấy rõ tâm can hắn, ta nghe được tiếng đàn của Gia Cát Lượng là một vinh hạnh rồi”. Sau đó lập tức truyền lệnh rút quân, tháo lui khỏi Tây Thành.

Quân Ngụy rút chạy rồi, Gia Cát Lượng thốt lên: “Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật”. Về phần Tư Mã Ý về đến trại, kéo ghế cho Tư Mã Sư ngồi, nghe con nói qua tình hình Tây Thành rồi bảo: “Ta thua Khổng Minh ở số trời, số trời không giúp ta”.

Vậy rốt cuộc ‘trời xanh’ đã giúp Gia Cát Lượng điều gì? Và ‘số trời’ đã không giúp Tư Mã Ý điều gì? Điều này chắc chắn là có liên quan đặc biệt đến tiếng đàn mà Gia Cát Lượng đánh. Đó không phải là nhờ ‘may rủi’ theo kiểu đỏ đen, mà là ‘may rủi’ bằng nghệ thuật thuyết phục lòng người – ‘Tâm lý chiến”.

Vậy trong tiếng đàn Gia Cát ở Tây Thành có những gì, âm luật gì vậy? Qua tiếng đàn (qua âm luật) Gia Cát Lượng đã gửi tâm ý của mình đến Tư Mã Ý, một người cũng am tường âm luật như mình một thông điệp: “Nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác ông. Sở dĩ ông được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến ông không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh bị cho vào bếp, đó là lẽ thường”.
Cũng giống như Hàn Tín xưa kia vậy, lấy một nửa giang sơn cho nhà Hán, xong bị Lữ Hậu giết chết. Phạm Lãi và Văn Chủng sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt vua Ngô Phù Sai thì cũng bị giết, chỉ duy có Phạm Lãi hiểu ý này nên đã mai danh ẩn tích nên bảo toàn được mạng sống. Hay như trong sử Việt, Đặng Trần Thường và Nguyễn Văn Thành theo phò vua Gia Long – Nguyễn Ánh, sau khi đại nghiệp hoàn tất đều bị giết, đó chính là ‘quy luật’.

Lắng nghe tiếng đàn Gia Cát Khổng Minh, Tư Mã Ý cấp tốc tháo lui khỏi Tây Thành. Thả Gia Cát Lượng đi thoát cũng đồng thời tạo đường sống, hậu vận cho mình và con cháu. Đó chính là ‘ý trời’ mà cả Gia Cát Lượng và Tư Mã ý đều nói đến. Những lời còn lại của Gia Cát nói với Khương Duy, hay Tư Mã ý nói với con trai, chỉ là một phần sự thật để che đi pha thương thuyết qua tiếng đàn giữa hai nhân vật cự phách này.

Thấu hiểu điểm mạnh – yếu của đối phương (Tư Mã Ý), biết Ý tinh thông thứ gì, không biết thứ gì, mà tùy cơ sử dụng. Còn nếu chỉ như là nhắm mắt làm bừa, rồi trông chờ vào may rủi kiểu cờ bạc, điều này có thể đúng với những mưu sỹ tầm thường và những võ phu ‘hữu dũng vô mưu’, nhưng với Gia Cát Lượng thì hoàn toàn sai. Ông không bao giờ làm như vậy, vì ông có một trí thông minh tuyệt đỉnh, không phải là kẻ phàm nhân như bao người khác, vì vậy mới lưu danh thiên cổ.

Bình sinh từ bé, Gia Cát Lượng là một Đạo sỹ ẩn danh, đã khổ luyện cùng Sư Phụ của mình, và truyền thụ tinh hoa trong môn Đạo gia của mình, tâm tính đã đạt đến cảnh giới rất cao. Sống cuộc đời ẩn dật nơi rừng sâu núi thẳm, quanh năm chỉ thấy trò chuyện với các bạn tâm giao như: Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Nguyên, Mạnh Công Uy và Từ Nguyên Trực… uống rượu, ngâm thơ, bình luận thiên hạ, thời cuộc.

Mãi cho đến khi Lưu Bị ba lần tới thăm lều cỏ mới tỏ nổi tấm chân tình, làm cảm động ông, cũng bởi vì ông đã thấy thiên tượng biến đổi, đã đến lúc mình xuất sơn đi thực hiện sứ mệnh mà lịch sử giao phó, trợ giúp Lưu Bị đăng cơ, phân định ra Tam Quốc, và diễn thành công chữ “Nghĩa” lưu truyền hậu thế.

Quả nhiên sau này Khổng Minh Bắc phạt, Tư Mã Ý soái lĩnh Ngụy quân chống lại, dần dần bồi dưỡng thực lực làm nên cuộc đảo chính phế Tào Sảng, nắm giữ binh quyền nước Ngụy. Tài trí Khổng Minh vang danh hậu thế phần nhiều cũng nằm ở những lần đối trận với Tư Mã Ý.

Gảy đàn chọc tức Chu Du

Để thực hiện âm mưu chiếm lại Kinh Châu, Chu Du chủ trương kế sách “mượn đường diệt Quắc”, sai Lỗ Túc sang Kinh Châu giả vờ bàn bạc kế sách với Lưu Bị. Theo đó, Chu Du sẽ vờ lên đường đi đánh lấy Tây Xuyên sau đó đổi Tây Xuyên lấy Kinh Châu cho Lưu Bị. Tiếng là đi lấy Tây Xuyên nhưng Chu Du sẽ vờ đi qua Kinh Châu rồi bất ngờ đánh úp. Mượn đường diệt Quắc, lợi dụng hòa hoãn địch để rồi quay lại tấn công bằng lợi thế do chính địch tạo ra cho mình, xuất phát từ điển cố:

Năm 658 TCN – Thời Xuân Thu, Tấn Hiến công (vị quân chủ thứ 29 nước Tần – chư hầu nhà Chu) quyết định phát động chiến dịch đánh nước Quắc. Tuy nhiên nước Quắc và nước Ngu là láng giềng, thường cứu trợ lẫn nhau. Theo kế của Tuân Tức (tướng quốc nước Tấn), vua Tấn sai người lấy ngựa tốt và xe đẹp tặng Ngu công (vua nước Ngu) để mượn đường đánh nước Quắc. Ngu công bằng lòng cho Tấn mượn đường đánh Quắc và cam kết sẽ không cứu viện cho nước Quắc nữa. Tấn Hiến công mang quân đánh Quắc, chiếm đất Dương Hạ.
Năm 654 TCN, Tấn lại mượn đường nước Ngu để đánh Quắc lần thứ hai. Đại phu nước Ngu là Cung Chi Kỳ khuyên vua Ngu không nên đồng ý mà nên liên minh với Quắc vì hai nước ở địa thế che chở cho nhau; nếu cho mượn đường thì Tấn sẽ diệt cả Ngu sau khi diệt Quắc. Tuy nhiên Ngu công không nghe, Cung Chi Kỳ bèn bỏ đi. Kết quả quân Tấn kéo sang đánh, nước Quắc yếu không chống nổi, lại không có cứu viện của nước Ngu nên bị tiêu diệt.

Sau khi diệt Quắc, Tấn Hiến công mang quân quay lại đánh úp nước Ngu, diệt nốt nước Ngu, bắt sống Ngu công. Nước Ngu truyền từ Ngu Trọng được Chu Vũ vương phong tới đó chấm dứt. Việc mượn đường Ngu diệt Quắc của Tấn Hiến công được đời sau gọi là “Giả đạo phạt Quắc” – một trong 36 kế sách lược của quân sự Trung Quốc cổ đại.


Nhưng kế sách này đã sớm bị Gia Cát Lượng dễ dàng đoán ra. Ông bày kế cho Lưu Bị, giả bộ đồng ý với Lỗ Túc rồi chuẩn bị hành động theo sắp đặt của mình. Khi quân Chu Du đến, yêu cầu mở thành, thì tướng giữ thành Kinh Châu, Triệu Tử Long theo dặn dò của Gia Cát Lượng nói rằng kế sách “mượn đường để diệt nước Quắc” đã bị Gia Cát Lượng biết trước. Tiếp theo, Triệu Tử Long cho tấu khúc nhạc “đắc thắng trở về” và cho quân hô: “Bắt sống Chu Du!” liên tục. Chu Du tức tối, điên tiết, vết thương cũ bị vỡ ra và ngã ngựa.

Quân Ngô rút quân, khi đến ven núi, thì nghe thấy Gia Cát Lượng tấu “Trường Hà Ngâm” mà Chu Du sáng tác. Gia Cát Lượng hết lời khen ngợi sự tinh tế, chí lớn và sự tài hoa của tác giả khúc nhạc, khuyên Chu Du không nên đòi Kinh Châu mà nên hợp tác để diệt giặc Tào. Chu Du không nghe và nói rằng: “Hôm nay ta bất chấp sinh tử quyết một trận sống mái với ngươi đây.

Quân sĩ Thục lại hô to nhiều lần: “Bắt sống Chu Du!”, “Bắt sống Chu Du!”, các đại tướng quân Thục: Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung… đồng loạt từ 4 phía ùa đến. Chu Du uất ức không chịu được, vết thương cũ tiếp tục bị vỡ ra, rồi ngất trên cáng. Gia Cát Lượng phe phẩy quạt lông vũ, rồi phẩy tay cho quân rẽ ra để đội quân của Đông Ngô an toàn trở về, không chém giết hay truy kích gì. Sau đó không lâu khi trở về Đông Ngô, Chu Du đã không qua khỏi và qua đời.

Việc Gia Cát Lượng bày mưu tính kế một cách rất ôn hoà, chỉ tấu 2 khúc nhạc mà phá hỏng kế sách tưởng vẹn toàn, hiểm độc của Chu Du. Trước sự tỉnh táo và điềm nhiên lạ thường của Gia Cát Lượng, Chu Du thực sự hốt hoảng, bệnh cũ nhân đó mà tái phát nặng nề hơn, đành ngậm đắng nuốt cay mà ra về công cốc.

Gia Cát Lượng đã hành xử khôn khéo. Nếu động binh giết Chu Du thì 2 nước Thục – Ngô sẽ trở mặt thành thù, từ đó thế liên minh Tôn – Lưu thất bại, quân Tào Nguỵ sẽ lợi dụng diệt dần từng nước. Tại sao không “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy trí nhân để thay cường bạo”? Đó mới chính là cao kiến vậy! Chỉ cần dùng nghệ thuật tâm lý chiến, đánh thẳng vào tâm lý của đại tướng đối thủ, khiến đối thủ mất đi tinh thần, tự chuốc lấy bại vong cho thấy các dùng binh và cảnh giới tư tưởng của Gia Cát Lượng quả thật đã vượt Chu Du rất xa.

Tào Chân chết chỉ vì “một bức thư”

Đến năm Kiến Hưng thứ bảy nhà Thục Hán, Gia Cát Lượng lại đem quân ra Kỳ Sơn, tiến vào bờ cõi nước Nguỵ. Lần này, vua Nguỵ cử Tào Chân làm đại đô đốc, Tư Mã Ý làm phó đô đốc, đem quân chống nhau với quân Thục. Gia Cát Lượng dùng mưu đánh cho Tào Chân thua một trận liểng xiểng. Sau nhờ có Tư Mã Ý đem quân đến cứu kịp thời, Tào Chân mới toàn mạng nhưng uất quá mà thành bệnh.

Sau khi dò biết được Tào Chân đang lâm bệnh nặng, Gia Cát Lượng liền nảy ra một kế, dùng đòn tâm lý để hạ địch. Ông viết một phong thư sai quân mang sang trại Nguỵ đưa cho Tào Chân. Tào Chân gượng dậy mở thư ra xem, thấy viết:

Biết lo biết lưỡng
Biết lui biết tới
Biết nhược biết cường
Vững vàng như núi đá
Biết hóa như âm dương
To tát như trời đất
Đầy đủ như kho tàng
Rộng mênh mang như bốn bể
Sáng vằng vặc như tam quang

Thuộc địa lý, chỗ hiễm chỗ thường
Thế trận khó dễ cần phải hiểu
Tài giặc hay dở cần phải tường
Than ôi!
Bọn bây hậu bối
Trái lẽ khung thương
Giúp quân phản tặc
Chiếm hiệu đế vương
Đem quân thừa ra Tà Cốc
Gặp mưa dầm ở Trần Thương

Quân mã cuống cuồng
Cờ giáp quăng ra đầy nội
Gươm giáo bỏ lại khắp đường
Đô đốc hãi hùng như chó chạy
Tướng quân lẩn núp tựa chuột hang
Mặt nào còn trông thấy phụ lão?
Mặt nào còn vào nơi sảnh đường?
Vết xấu ghi vào sử sách
Tiếng tăm truyền để bẽ bàng
Trọng Đạt trông thấy trận đã hết vía

Tướng ta như rồng như hổ
Quân ta vừa thịnh vừa cường
Quét Tần Xuyên làm nơi đất phẳng
Đạp nước Ngụy làm gò bỏ hoang


Trong thư, Gia Cát Lượng cười nhạo Tào Chân là đồ vô học, không biết dùng binh, liên tiếp thất bại thảm hại, còn mặt mũi nào gặp lại dân chúng Quan Đông, còn mặt mũi nào thăng đường nghị sự? Tào Chân xem xong, uất ức ngất xỉu, ngay đêm đó tắt thở trong trướng.

Chỉ là một bức thư nhưng từng chữ từng chữ sắc bén tựa gươm đao, đâm vào tâm can đối phương, quả là lợi hại lắm thay. Muốn thực hiện được kế này thì kẻ địch nhất định phải đang bị nội thương, thể trạng yếu mệt, sức đề kháng về cả tinh thần lẫn thể xác đều giảm mạnh, giống như một ngọn đèn trước gió, chỉ cần một cơn gió đủ mạnh thổi đến, cũng có thể khiến cho đèn tắt.

Giả ma giả quỷ, gặt hết lúa mỳ, doạ Trọng Đạt (Tư Mã Ý) thất kinh

Năm Kiến Hưng thứ 9, mùa xuân tháng hai, Khổng Minh lại dẫn 10 vạn đại quân ra đánh Ngụy. Bấy giờ là năm Ngụy Thái Hòa thứ năm. Ngụy chủ Tào Tuấn nghe tin liền cho Tư Mã Ý đi phá địch. Biết trước đại quân của Gia Cát Lượng sẽ gặp vấn đề quân nhu khi tiến sâu vào lãnh thổ quân Nguỵ, Tư Mã Ý một mặt cho Trương Cáp ra dựng trại giữ Kỳ Sơn, một mặt đích thân kéo 10 vạn quân ra Lũng Tây, nơi có rất nhiều lúa mỳ đã đến độ thu hoạch, nhằm kiểm soát khu vực này, không cho Khổng Minh có cơ hội lấy quân nhu ở đây.

Quả nhiên, Lý Nghiêm ở Tứ Xuyên vận lương không kịp, nên Gia Cát Lượng bèn sai Vương Bình, Trương Ngực, Ngô Ban, Ngô Ý bốn tướng ở lại giữ Kỳ Sơn. Bản thân dẫn Ngụy Diên, Khương Duy và các tướng đến Lỗ Thành, tất cả hơn 3 vạn. Quan thái thú quận này vốn biết tiếng Khổng Minh, vội vàng mở cửa ra hàng. Đúng lúc này thám quân về báo, Tư Mã Ý đã dẫn 10 vạn đại quân tới Lũng Thượng rồi. Khổng Minh thấy thế, bèn lấy bản đồ khu vực này ra xem, rồi hỏi Thái Thú về một vị trí có tên là “Bãi cây ma”, thì được biết, chỗ đó chẳng hề có ma, nhưng mà khí vẩn u uất, tiếng gió rít nghe rất rợn người, nghe như ma như quỷ. Thấy vậy Khổng Minh bèn cười nói: “Trời cho ta thành công đây“.

Khổng Minh lập tức tắm gội, thay áo rồi sai đem ra ba cỗ xe bốn bánh, trang sức giống y như nhau, xe này chế sẵn ở Thục mang đi. Khi ấy Khổng Minh sai Khương Duy dẫn một nghìn quân hộ xe, năm trăm quân đánh trống, phục sẵn mé sau Thượng Nhai. Sai Mã Đại, Ngụy Diên, mỗi người dẫn một nghìn quân hộ xe, năm trăm quân đánh trống, phục sẵn hai mặt tả hữu. Mỗi mặt có một cái xe, dùng 24 người, mặc áo thâm, đi chân không, xõa tóc, chống gươm, tay cầm cờ phướng thất tinh đen, xúm quanh đẩy xe. Ba tướng nhận lệnh, dẫn quân đẩy xe đi.

Khổng Minh sai 3 vạn quân mang sẵn liềm hái, thừng chạc, chực rình gặt lúa, lại sai 24 tên lính tráng, đều mặc áo thâm, xõa tóc đi chân không, cầm gươm đẩy một cỗ xe bốn bánh, sai Quan Hưng ăn mặc đóng vai thiên bồng, tay cầm ngọn phướng thâm, vẽ thất tinh, đi trước xe. Khổng Minh ngồi chĩnh chện trên xe, nhằm trại Ngụy kéo đến. Quân đi tiểu trông thấy cả kinh, không biết người, hay là quỷ, vội vã về báo với Tư Mã Ý.

Ý ra trại nhìn xem, thấy Khổng Minh đội mũ trâm hoa, mặc áo cánh hạc, tay cầm quạt lông, ngồi trên xe bốn bánh. Tả hửu có 24 người tóc tai rũ rượi, tay cầm thanh kiếm. Trước mặt có một người mang phướng thâm, hình như thần tướng trên trời. Ý nói: “Đây là Khổng Minh bày trò quỷ quái đây!” Bèn gọi hai nghìn quân mã đến dặn rằng: “Chúng mày chạy cho mau, bắt cho kỳ hết lại đây.

Quân Ngụy vâng lệnh, ra đuổi theo. Khổng Minh thấy quân Ngụy kéo đến, sai quay xe thong thả đi về trại Thục. Quân Ngụy quay ngựa cố sức đuổi, chỉ thấy gió lạnh gai gai, mây đen mờ mịt, đuổi hàng thôi đường mà vẫn không kịp. Quân Ngụy lấy làm lạ, dừng ngựa lại bảo nhau rằng: “Quái lạ thay! Chúng ta đuổi miết một hồi, tới ba chục dặm đường mà vẫn thấy lù lù ở trước mặt, không sao kịp, chẳng biết Tư Mã Ý duyên cớ làm sao?

Cứ thế, mỗi lần thúc quân đuổi thêm mấy chục dặm đường đều thấy mãi mà không đuổi kịp, không hiểu chuyện gì. Lúc này Ý kéo binh đến hỏi thì tướng thuật lại y như vậy. Rồi gió lại rít, các tiếng rợn người, khói bay mịt trời, nửa mờ nửa tỏ, đang loay hoay không biết nên tiến tiếp hay nên về thì bỗng nghe thấy, ở mé tả trống trận nổi vang, một toán quân đổ ra. Ý kịp sai quân chống cự, thì thấy trong đội quân Thục, có 24 người, xõa tóc đi chân không, áo đen phướng thâm, xúm xít đẩy một cổ xe. Trên xe Khổng Minh mũ thâm, áo bạc ngồi chễm chệ, tay cầm quạt lông phe phẩy.

Ý thất kinh nói: “Vừa mới đàng kia có Khổng Minh ngồi xe, đuổi năm chục dặm không kịp, sao ở đây lại có Khổng Minh? Lạ quá! Lạ quá!“. Nói chưa dứt lời, ở mé hữu lại thấy trống đánh om sòm, một toán quân xô đến, trong bọn này cũng có Khổng Minh ngồi xe bốn bánh, tả hữu 24 người đi hộ vệ, y như đám trước. Ý ngờ vực lắm, quay lại bảo các tướng rằng: “Đây chắc là thần binh rồi.

Quân Ngụy bấy giờ đã xôn xao, không dám đánh nhau, tìm đường tháo chạy. Bỗng lại thấy trống đánh vang lừng, một đội quân kéo ra, cũng có Khổng Minh ngồi xe, hình dạng y như các đám trước. Quân Ngụy kinh hãi vô cùng. Tư Mã Ý không biết là người hay quỷ, và quân Thục nhiều ít thế nào, sợ hết hồn hết vía, dẫn quân chạy miết về Thượng Nhai, đóng chặt cửa thành, không dám ra nữa. Bấy giờ Khổng Minh mới sai 3 vạn quân cắt hết lúa mạch ở Lũng Thượng, vận về Lỗ Thành, đập thóc ra phơi.

Tư Mã Ý ở trong thành Thượng Nhai, ba ngày không dám ra ngoài. Về sau thấy quân Thục rút hết, mới dám sai quân đi tuần tiễu. Quân tiễu bắt được quân Thục ở dọc đường đem về nộp Tư Mã Ý, nó kể lại sự tình Ý mới ngã ngửa đập bàn khóc: “Khổng Minh thực có tài xuất quỷ nhập thần“.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Top