"Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi ra câu đối tài tình khiến vua tôi nhà Nguyên phải khuất phục

Nan Đắc Hữu Tình Nhân

Quan Thục Di
Thành viên BQT
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1272 và mất năm 1346, đời nhà Trần. Ông quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Dương (nay là làng Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương). Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị trạng nguyên. Sau khi thi đỗ, Mạc Đĩnh Chi được ban chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia, tức quản lý kho sách của thư viện hoàng gia. Sau đó thăng dần lên Hàn lâm Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung.

Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1272 và mất năm 1346, đời nhà Trần. Ông quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Dương (nay là làng Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương). Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị trạng nguyên. Sau khi thi đỗ, Mạc Đĩnh Chi được ban chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia, tức quản lý kho sách của thư viện hoàng gia. Sau đó thăng dần lên Hàn lâm Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung.

Ông làm quan trải bốn triều vua Trần: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông. Ông được cử đi sứ hai lần sang nhà Nguyên vào các năm 1308 và 1324. Tương truyền, ông vừa là trạng nguyên của Đại Việt và cũng được phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" (Trung Hoa và Đại Việt) khi sang sứ Trung Hoa thời nhà Nguyên. Và theo các tài liệu còn lưu truyền đến ngày nay, trong cả hai chuyến đi sứ của ông có nhiều điều thú vị.

1716972862128.png


Một lần, đoàn sứ bộ đi đến cửa quan thì đã muộn, cửa quan đã đóng. Sứ bộ ta gọi cửa mãi không được. Một lúc sau thấy từ trên vọng lâu thòng xuống một mảnh giấy, trên đó là một vế đối, thách sứ giả ta đối được thì mới mở cửa quan cho đi. Vế ra như sau: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan. Vế đối này có nghĩa là: Tới cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua.

Đây là một vế đối khó, phải tìm được một câu trong đó một từ phải được lặp lại 4 lần và một từ phải được lặp lại 3 lần tương ứng với hai từ ở vế ra. Mạc Đĩnh Chi đã rất nhanh ý, ông lấy ngay hoàn cảnh của mình trong lúc này để đối lại rằng: Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. Nghĩa của câu này là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước.

Nói mời tiên sinh đối trước là có ý nhún nhường, nhưng bản thân đây đã là một vế đối hoàn hảo rồi. Câu này cũng có chữ "đối" được lặp lại 4 lần và chữ "tiên" được lặp lại 3 lần, ý tứ rất chỉnh. Vì thế, viên quan trông giữ cửa quan đành phải mở cho đoàn sứ bộ của ta đi qua.

Khi Mạc Đĩnh Chi được diện kiến, vua Nguyên đã ra vế đối: "Nhật, hỏa, vân, yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ. Câu này có nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng. Và vế đối này có ý tự phụ ta đây là vua của Thiên triều, là bậc thiên tử, như mặt trời đỏ có thể thiêu cháy tất cả, còn các nước chư hầu như mặt trăng yếu ớt, chỉ dám sáng vào ban đêm, còn ban ngày sẽ bị mặt trời thiêu cháy.

Tuy nhiên, với sự thông minh, mẫn tiệp và dũng cảm của mình, Mạc Đĩnh Chi đã khảng khái đối lại: Nguyệt, cung, tinh, đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô. Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có nghĩa là: Mặt trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rơi mặt trời. Vế đối lại của Mạc Đĩnh Chi cực kỳ chỉnh, ý tứ lại rất mạnh mẽ. Hơn nữa, câu đối của ông còn tỏ rõ bản lĩnh của sứ thần, chẳng khác gì nói rằng mình có thể bắn thẳng vào mặt vua Nguyên! Quả thật là táo bạo. Vua Nguyên dù hậm hực lắm nhưng đành chịu tài sứ giả đại Việt, vì chẳng thể nào bắt bẻ vào đâu được.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Thành viên mới đăng
Top