Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước, sáng tạo, tự lực tự cường để chế tạo ra nhiều loại vũ khí thô sơ, tự tạo. Các loại vũ khí thô sơ này có từ nhiều nguồn: có loại tự chế, có loại được cải tiến từ phương tiện, dụng cụ sinh hoạt, sản xuất, có loại cải tiến từ vũ khí lấy được của địch để đánh địch…
Nguyên liệu chế tạo vũ khí thường sẵn có ở địa phương như: tre, gỗ, đá, ong bò vẽ, lá độc… và dây thép, đạn lép thu lượm được của địch. Tuy là những vũ khí thô sơ, tự chế nhưng vẫn có những khả năng sát thương cao, gây thiệt hại cho quân địch góp phần quan trọng vào thắng lợi của dân tộc.
Bàn chông, vũ khí lạnh, có mũi nhọn, được bố trí ở nơi nhất định, dùng sát thương sinh lực địch.
Một loại bẫy chông.
Các loại vũ khí tự chế: dao, mác, lao...
Chưa có một tài liệu nào thống kê hết được số lượng, kiểu loại, kích cỡ và chất liệu làm nên cac loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam sử dụng trong chiến tranh chống đế quốc xâm lược. Chỉ riêng chông đã có trên 33 loại; súng “ngựa trời” có đến 40 kiểu; mìn, lựu đạn, thủy lôi có đến hàng trăm kiểu loại… Kết quả thống kê hiện có trong các tài liệu của Việt Nam chỉ là tương đối.
Nhu cầu vũ khí của chiến trường đòi hỏi quân và dân ta trên khắp cả nước dấy lên phong trào thu nhặt phế liệu, bom mìn và sản xuất vũ khí. Mọi làng sản xuất chông, mọi huyện sản xuất lựu đạn, mìn; từng thôn ấp, xã, huyện của Việt Nam sản xuất vũ khí. Điều đó cho thấy số lượng và sự đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cá loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam.
Tổ ong tưởng chừng không có hại nhưng lại được dân ta tự chế thành loại vũ khí cực độc khiên quân thù khiếp sợ.
Súng “ngựa trời” sản xuất từ năm 1956, dùng phóng các mảnh kim loại, thủy tinh, đá vụn… để sát thương địch.
Khi có giặc ngoại xâm, tất cả người Việt Nam từ già trẻ, gái trai, ai ai cũng có thể làm được vũ khí và sử dụng vũ khí đó để đánh địch. Đàn ông trai tráng rèn búa, rèn dao, làm mìn, lựu đạn, làm trận địa đánh địch; người già, phụ nữ, trẻ em, vót chông, cắm chông, nhồi đạn…
Các vũ khí được sản xuất tự do nên không đồng nhất về mặt kích thước và trọng lượng, nhưng phù hợp với tầm vóc và lứa tuổi của người Việt Nam. Các loại vũ khí này tuy thô sơ, để phát huy hết công dụng các vũ khí này được sử dụng linh hoạt, lợi dụng điều kiện bất lợi của khí hậu, địa hình mỗi miền, mỗi vùng, đánh địch theo cách đánh sở trường của mỗi người, mỗi địa phương.
Lựu đạn vỏ bằng xi măng, vũ khí trang bị cho du kích đánh địch càn quét trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Pháo phản lực ĐKB được cải tiến từ BM-21 sử dụng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ của quân của dân ta.
Nhân dân ta không chỉ sản xuất ra vũ khí mà còn sáng tạo ra cách đánh độc đáo từ loại vũ khí đó. Điều lạ lùng là mìn bẫy có thể diệt máy bay trên trời, chông có thể diệt phi công và lính dù… nhưng đó là sự thật ở Việt Nam.
Các loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc phát triển có sự kế thừa kinh nghiệm của cha ông, được phát triển nâng tầm cao hơn về kỹ thuật, mang đặc trưng riêng của mỗi vùng miền, được sử dụng với nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân Nhân dân Việt Nam đem lại hiệu suất chiến đấu cao. Các loại vũ khí do Việt Nam sản xuất mặc dù còn nhiều hạn chế về kỹ thuật nhưng đã phát huy tác dụng, có hiệu quả thiết thực, góp phần cùng toàn dân, toàn quân đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.
Chiến thắng của quân và dân ta trong Tổng tiến công ******* mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối. Vũ khí thô sơ, tự tạo không chỉ là sản phẩm của ý chí tự cường, trí thông minh, óc sáng tạo của quân và dân ta, mà còn phản ánh một cách sâu sắc đường lối, nghệ thuật quân sự của Việt Nam.
#Vũkhí
#Vũkhíthôsơ
#Tổong
#Pháophảnlực
#ThựcdânPháp
#ChiếndịchHồChíMinh
#điệnBiênPhủ
#Súngngựatrời
Nguyên liệu chế tạo vũ khí thường sẵn có ở địa phương như: tre, gỗ, đá, ong bò vẽ, lá độc… và dây thép, đạn lép thu lượm được của địch. Tuy là những vũ khí thô sơ, tự chế nhưng vẫn có những khả năng sát thương cao, gây thiệt hại cho quân địch góp phần quan trọng vào thắng lợi của dân tộc.
Bàn chông, vũ khí lạnh, có mũi nhọn, được bố trí ở nơi nhất định, dùng sát thương sinh lực địch.
Một loại bẫy chông.
Các loại vũ khí tự chế: dao, mác, lao...
Chưa có một tài liệu nào thống kê hết được số lượng, kiểu loại, kích cỡ và chất liệu làm nên cac loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam sử dụng trong chiến tranh chống đế quốc xâm lược. Chỉ riêng chông đã có trên 33 loại; súng “ngựa trời” có đến 40 kiểu; mìn, lựu đạn, thủy lôi có đến hàng trăm kiểu loại… Kết quả thống kê hiện có trong các tài liệu của Việt Nam chỉ là tương đối.
Nhu cầu vũ khí của chiến trường đòi hỏi quân và dân ta trên khắp cả nước dấy lên phong trào thu nhặt phế liệu, bom mìn và sản xuất vũ khí. Mọi làng sản xuất chông, mọi huyện sản xuất lựu đạn, mìn; từng thôn ấp, xã, huyện của Việt Nam sản xuất vũ khí. Điều đó cho thấy số lượng và sự đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cá loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam.
Tổ ong tưởng chừng không có hại nhưng lại được dân ta tự chế thành loại vũ khí cực độc khiên quân thù khiếp sợ.
Súng “ngựa trời” sản xuất từ năm 1956, dùng phóng các mảnh kim loại, thủy tinh, đá vụn… để sát thương địch.
Khi có giặc ngoại xâm, tất cả người Việt Nam từ già trẻ, gái trai, ai ai cũng có thể làm được vũ khí và sử dụng vũ khí đó để đánh địch. Đàn ông trai tráng rèn búa, rèn dao, làm mìn, lựu đạn, làm trận địa đánh địch; người già, phụ nữ, trẻ em, vót chông, cắm chông, nhồi đạn…
Các vũ khí được sản xuất tự do nên không đồng nhất về mặt kích thước và trọng lượng, nhưng phù hợp với tầm vóc và lứa tuổi của người Việt Nam. Các loại vũ khí này tuy thô sơ, để phát huy hết công dụng các vũ khí này được sử dụng linh hoạt, lợi dụng điều kiện bất lợi của khí hậu, địa hình mỗi miền, mỗi vùng, đánh địch theo cách đánh sở trường của mỗi người, mỗi địa phương.
Lựu đạn vỏ bằng xi măng, vũ khí trang bị cho du kích đánh địch càn quét trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Pháo phản lực ĐKB được cải tiến từ BM-21 sử dụng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ của quân của dân ta.
Nhân dân ta không chỉ sản xuất ra vũ khí mà còn sáng tạo ra cách đánh độc đáo từ loại vũ khí đó. Điều lạ lùng là mìn bẫy có thể diệt máy bay trên trời, chông có thể diệt phi công và lính dù… nhưng đó là sự thật ở Việt Nam.
Các loại vũ khí thô sơ, tự tạo của Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc phát triển có sự kế thừa kinh nghiệm của cha ông, được phát triển nâng tầm cao hơn về kỹ thuật, mang đặc trưng riêng của mỗi vùng miền, được sử dụng với nghệ thuật tác chiến của chiến tranh nhân Nhân dân Việt Nam đem lại hiệu suất chiến đấu cao. Các loại vũ khí do Việt Nam sản xuất mặc dù còn nhiều hạn chế về kỹ thuật nhưng đã phát huy tác dụng, có hiệu quả thiết thực, góp phần cùng toàn dân, toàn quân đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi.
Chiến thắng của quân và dân ta trong Tổng tiến công ******* mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối. Vũ khí thô sơ, tự tạo không chỉ là sản phẩm của ý chí tự cường, trí thông minh, óc sáng tạo của quân và dân ta, mà còn phản ánh một cách sâu sắc đường lối, nghệ thuật quân sự của Việt Nam.
#Vũkhí
#Vũkhíthôsơ
#Tổong
#Pháophảnlực
#ThựcdânPháp
#ChiếndịchHồChíMinh
#điệnBiênPhủ
#Súngngựatrời