Nguyễn Quán Quang, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, tỉnh Kinh Bắc (nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), là vị trạng nguyên đầu tiên của đất nước. Ông thi đỗ đầu khoa thi tiến sĩ năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 3, tức năm Giáp Ngọ - 1234), đời vua Trần Thái Tông trị vì. Vì thế, các sử gia, các tác giả phong kiến đều gọi ông là khai khoa Trạng nguyên. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, sau khi thi đỗ, ông được vua ban quốc tính, làm quan tới chức Bộc xạ, khi mất, Nguyễn Quán Quang được tặng hàm Đại tư không. Song bởi có công đức với quê hương nên ông được người đời truyền tụng nhiều câu chuyện về cuộc đời ông.
Chuyện xưa kể lại rằng, Nguyễn Quán Quang khi nhỏ tên thật là Quan Quang. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, không có tiền, gạo theo học, ông thường phải lân la ngấp nghé cửa lớp lúc thầy dạy bọn học trò trong làng sách Tam tự kinh, rồi ngồi ngay giữa sân lấy đất viết chữ xuống nền gạch. Một hôm tan học, thầy chợt để ý tới thấy sân nhà có nhiều chữ, nét chữ như phượng múa rồng bay. Thầy kinh ngạc mà rằng: Đây mới chính là trò giỏi.
Nói rồi, thầy gọi Quan Quang đến và cho học. Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh, học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã thuộc làu Tứ thư ngũ kinh, ứng khẩu thành thi, luận bàn việc đời thông thái. Gặp khoa thi Hương, ông ứng thi và đỗ đầu, gọi là Giải nguyên. Đến thi Hội lại đỗ Hội nguyên, khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi đại tỷ (bấy giờ chưa gọi là thi Đình), ông đỗ Trạng nguyên. Đương thời cũng như người đời sau đều gọi Nguyễn Quan Quang là “Ông Tam nguyên” chính là vì thế. Và cũng do lẽ ấy mà sau khi ông đỗ trạng, người ta gọi ông là Quán Quang. Sau ngày bái tổ vinh quy, Nguyễn Quán Quang vào chầu vua để đăng quan. Thấy ông cao to, khí phách hơn người, nhà vua tỏ lòng quý mến, mới ban cho quốc tính. Từ đấy, trong triều ngoài nội đều gọi ông là Trần Quán Quang.
Bấy giờ, quân Nguyên Mông tiến tới biên giới đông như kiến cỏ, lăm le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ra chiếu cử Nguyễn Quán Quang sang thương nghị với giặc. Tên tướng giặc nổi tiếng là kiêu, hung và thâm thúy, cho rằng Quán Quang đến để mang ba tấc lưỡi thuyết khách, hắn bèn nghĩ cách dùng uy để chế áp Quán Quang. Nhân đi qua ao bèo, hắn vớt một cây bèo lên, cầm gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau, hắn mở ra chìa cho Quán Quang xem thì cây bèo đã nát vụn. Thế rồi hắn cười sằng sặc ra chiêu đắc ý lắm. Quán Quang hiểu rằng, tướng giặc tỏ ý coi nước Việt như những cánh bèo non yếu, chỉ cần khẽ đánh là tan. Nghĩ vậy, ông bèn nhặt một hòn đá rất to rồi ném xuống giữa ao. Bèo dạt ra một khoảng trống, nhưng chỉ giây lát bèo lại kéo sát vào nhau. Tướng giặc tái mét mặt hiểu rằng: Người Việt đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không một sức mạnh nào có thể khuất phục được. Chính vì thế, hắn phải hoãn binh không dám tiến quân nữa.
Ở kinh sư một thời gian thì ông từ quan về quê, mở lớp dạy học. Ông sống cuộc đời thanh đạm và công đức, lấy việc dạy trò làm nguồn vui. Người dân Tam Sơn cho rằng, ông là người khai sáng cho nền Hán học của quê hương, mở đường cho đất “Ba gò” sau này có “một kho nhân tài”.
Chuyện xưa kể lại rằng, Nguyễn Quán Quang khi nhỏ tên thật là Quan Quang. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, không có tiền, gạo theo học, ông thường phải lân la ngấp nghé cửa lớp lúc thầy dạy bọn học trò trong làng sách Tam tự kinh, rồi ngồi ngay giữa sân lấy đất viết chữ xuống nền gạch. Một hôm tan học, thầy chợt để ý tới thấy sân nhà có nhiều chữ, nét chữ như phượng múa rồng bay. Thầy kinh ngạc mà rằng: Đây mới chính là trò giỏi.
Nói rồi, thầy gọi Quan Quang đến và cho học. Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh, học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã thuộc làu Tứ thư ngũ kinh, ứng khẩu thành thi, luận bàn việc đời thông thái. Gặp khoa thi Hương, ông ứng thi và đỗ đầu, gọi là Giải nguyên. Đến thi Hội lại đỗ Hội nguyên, khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi đại tỷ (bấy giờ chưa gọi là thi Đình), ông đỗ Trạng nguyên. Đương thời cũng như người đời sau đều gọi Nguyễn Quan Quang là “Ông Tam nguyên” chính là vì thế. Và cũng do lẽ ấy mà sau khi ông đỗ trạng, người ta gọi ông là Quán Quang. Sau ngày bái tổ vinh quy, Nguyễn Quán Quang vào chầu vua để đăng quan. Thấy ông cao to, khí phách hơn người, nhà vua tỏ lòng quý mến, mới ban cho quốc tính. Từ đấy, trong triều ngoài nội đều gọi ông là Trần Quán Quang.

Bấy giờ, quân Nguyên Mông tiến tới biên giới đông như kiến cỏ, lăm le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ra chiếu cử Nguyễn Quán Quang sang thương nghị với giặc. Tên tướng giặc nổi tiếng là kiêu, hung và thâm thúy, cho rằng Quán Quang đến để mang ba tấc lưỡi thuyết khách, hắn bèn nghĩ cách dùng uy để chế áp Quán Quang. Nhân đi qua ao bèo, hắn vớt một cây bèo lên, cầm gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau, hắn mở ra chìa cho Quán Quang xem thì cây bèo đã nát vụn. Thế rồi hắn cười sằng sặc ra chiêu đắc ý lắm. Quán Quang hiểu rằng, tướng giặc tỏ ý coi nước Việt như những cánh bèo non yếu, chỉ cần khẽ đánh là tan. Nghĩ vậy, ông bèn nhặt một hòn đá rất to rồi ném xuống giữa ao. Bèo dạt ra một khoảng trống, nhưng chỉ giây lát bèo lại kéo sát vào nhau. Tướng giặc tái mét mặt hiểu rằng: Người Việt đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không một sức mạnh nào có thể khuất phục được. Chính vì thế, hắn phải hoãn binh không dám tiến quân nữa.
Ở kinh sư một thời gian thì ông từ quan về quê, mở lớp dạy học. Ông sống cuộc đời thanh đạm và công đức, lấy việc dạy trò làm nguồn vui. Người dân Tam Sơn cho rằng, ông là người khai sáng cho nền Hán học của quê hương, mở đường cho đất “Ba gò” sau này có “một kho nhân tài”.