thuha19051234
Pearl
Trong nghiên cứu mới nhất, các nhà khoa học đã xác định 4 yếu tố nguy cơ có thể giúp dự đoán liệu một bệnh nhân có thể phát triển các triệu chứng Covid kéo dài hay không, khi họ trải qua các triệu chứng khác nhau trong vài tuần hoặc thậm chí vài tháng sau khi đợt nhiễm Covid-19 ban đầu của họ kết thúc.
Những yếu tố nguy cơ ở đây bao gồm: số lượng cao vật chất di truyền SARS-CoV-2 trong máu sớm khi bị nhiễm bệnh; bệnh nhân nhiễm bệnh có virus Epstein-Barr (EBV) - một mầm bệnh khác; một số tự kháng thể hoặc các phân tử miễn dịch nhắm mục tiêu đến các protein của cơ thể, thay vì nhắm mục tiêu vào virus hoặc vi khuẩn; bệnh nhân đã được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 - một dạng bệnh tiểu đường phổ biến nhất, trong đó các tế bào của cơ thể đề kháng với insulin.
Hầu hết những yếu tố nguy cơ này có thể được xác định vào thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán mắc Covid-19 lần đầu tiên, vì vậy có thể làm tăng hiệu quả từ các phương pháp điều trị kịp thời để có thể ngăn ngừa một số trường hợp COVID kéo dài. Tuy vậy, đây mới chỉ là khởi đầu, các nghiên cứu cần phải làm nhiều việc hơn nữa để tìm hiểu xem liệu những yếu tố nguy cơ này có thực sự thúc đẩy sự phát triển của COVID kéo dài hay không và liệu những tín hiệu có thể được phát hiện sớm hơn này có thể giúp dự đoán được những triệu chứng cụ thể nào có thể kéo dài ở các bệnh nhân khoảng 4, 8 hoặc 12 tháng kể từ sau khi khỏi bệnh hay không. Đó là một nghiên cứu "cho chúng ta một dấu hiệu tuyệt vời" về cách tiếp cận những phương pháp phục hồi cho bệnh nhân sau điều trị.
Những bệnh nhân tham gia phục vụ nghiên cứu được lấy mẫu máu và dịch mũi họng khi chẩn đoán, trong suốt quá trình họ bị nhiễm bệnh và sau đó khoảng vài tháng nữa. Ở lần theo dõi cuối cùng, các bệnh nhân cũng đã hoàn thành một cuộc khảo sát về các triệu chứng liên quan đến Covid-19 kéo dài, chẳng hạn như ho, mệt mỏi, khó thở, tiêu chảy, các vấn đề về trí nhớ, khó tập trung, mất vị giác và khứu giác.
Trong số những người được hỏi, có khoảng 37% bệnh nhân cho biết vào lần theo dõi cuối cùng họ vẫn có ít nhất 3 triệu chứng Covid kéo dài, 24% trường hợp báo cáo 1 hoặc vài triệu chứng, 39% còn lại báo cáo không có triệu chứng. Các chuyên gia cũng cho biết rằng những triệu chứng virus hô hấp thường gặp nhất, sau đó là những triệu chứng về thần kinh, mất vị giác và khứu giác, tiếp đến là những triệu chứng về đường tiêu hóa.
Trong nhóm các bệnh nhân tồn tại đến 3 triệu chứng Covid-19 kéo dài trở lên, 95% trong số đó biểu hiện ít nhất một trong 4 yếu tố nguy cơ mới được xác định, đây là những yếu tố có liên quan trực tiếp đến triệu chứng Covid-19 kéo dài bất kể tình trạng nhiễm bệnh ban đầu của bệnh nhân là nặng hay nhẹ. Phát hiện này được chứng thực thông qua việc phân tích máu từ một nhóm độc lập gồm 100 bệnh nhân COVID-19 sau cấp tính, hầu hết trong số họ đều là những bệnh nhân mắc Covid-19 ban đầu nhẹ.
Chẳng hạn, sự hiện diện của tự kháng thể IFN-α2 tại thời điểm chẩn đoán dự báo các triệu chứng hô hấp của Covid kéo dài. Dạng tự kháng thể này bám vào một chất dẫn truyền hóa học được gọi là interferon alpha-2 giúp chỉ đạo hoạt động của các tế bào miễn dịch cụ thể. Các tác giả nghiên cứu viết "Sự hiện diện của các kháng thể kháng IFN-α2 có thể khiến các tế bào miễn dịch này hoạt động không đúng cách và cũng thúc đẩy sản xuất các phân tử gây viêm trong cơ thể."
Ngoài kháng thể IFN-α2, các nhà nghiên cứu còn sàng lọc 5 tự kháng thể bổ sung, được gọi là kháng thể kháng nhân, liên kết với protein trong nhân tế bào, 5 kháng thể này đều có liên quan đến các rối loạn tự miễn dịch khác nhau, bao gồm bệnh bệnh lupus và viêm khớp dạng thấp, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa rõ liệu chúng có gây hại trực tiếp cho tế bào hay chỉ là dấu hiệu của bệnh tật. "Không có bằng chứng xác đáng cho thấy chúng gây bệnh."
Trong nghiên cứu mới này, các kháng thể kháng nhân này đều có liên quan đến các triệu chứng hô hấp và một số triệu chứng đường tiêu hóa của Covid-19 kéo dài.
Ngược lại với các triệu chứng hô hấp "PASC thần kinh không liên quan đáng kể với sáu tự kháng thể mà chúng tôi đo lường này". Thay vào đó, các triệu chứng thần kinh dường như liên quan đến các kháng thể nhắm vào chính virus coronavirus. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng những kháng thể này nhắm mục tiêu vào vỏ nhân của virus gọi là nucleocapsid, xuất hiện với số lượng lớn sau khi bị nhiễm bệnh và khi các triệu chứng Covid-19 kéo dài xuất hiện. Bởi vì các kháng thể nhắm mục tiêu coronavirus này xuất hiện muộn hơn thay vì vào khoảng thời gian chẩn đoán, vì vậy chúng sẽ không thực sự hữu ích để dự đoán các triệu chứng Covid kéo dài liên quan đến hệ thần kinh.
Giống với các tự kháng thể, EBV tái hoạt động được gắn với một nhóm nhánh con cụ thể của các triệu chứng Covid kéo dài. Chẳng hạn như những bệnh nhân có EBV trong máu khi được chẩn đoán cho thấy khả năng cao mắc các vấn đề về trí nhớ, cũng như mệt mỏi, tạo ra nhiều đờm hơn trong phổi. Bình thường các mảnh EBV trong máu sẽ không thể phát hiện, tuy nhiên nếu chúng xuất hiện là một dấu hiệu cho thấy chúng đã tái hoạt động. Điều thú vị là EBV chủ yếu xuất hiện trong máu của bệnh nhân tại thời điểm họ được chẩn đoán mắc Covid-19, và sau đó là sự giảm sút nhanh chóng của nồng độ virus trong máu. Các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời chắc chắn về lý do của hiện tượng này, nhưng họ suy đoán là do khi hệ thống miễn dịch tập hợp lại để chống lại coronavirus, EBV sẽ có cơ hội kích hoạt lại và gây ra thiệt hại lâu dài.
Nhiều nghiên cứu trước đó cũng cho thấy rằng, ở những người mang một bộ gen cụ thể, việc nhiễm EBV có thể gây ra bệnh lupus. Đầu tháng này, các nhà khoa học cũng đã công bố thêm một bằng chứng thuyết phục rằng, ở những người nhạy cảm, virus có thể gây ra bệnh đa xơ cứng - loại bệnh tự miễn dịch ảnh hưởng đến não và tủy sống. "Chúng tôi đã biết EBV đóng một vai trò quan trọng trong bệnh lupus, và bây giờ, trong bệnh đa xơ cứng. Nghiên cứu mới gợi ý rằng EBV cũng có ảnh hưởng đến Covid kéo dài."
Những phân tích về tải lượng virus cho thấy Covid-19 kéo dài có thể được ngăn ngừa hoặc ít nhân là làm giảm nhẹ hơn cá triệu chứng ở những bệnh nhân này, nếu sử dụng thuốc kháng virus để duy trì lượng virus. "Càng nhanh chóng loại bỏ được virus thì càng ít có khả năng phát triển của chúng hoặc sự tự miễn dịch dẫn đến Covid kéo dài." Tuy nhiên, do Covid kéo dài có thể xảy ra ở cả những bệnh nhân nặng và nhẹ, nên các nhà nghiên cứu vẫn chưa khẳng định được liệu điều trị kháng virus tích cực có thể giúp ích được cho tất cả các bệnh nhân hay không.
Những phát hiện này cũng có thể gợi ý thêm về những phương pháp điều trị Covid kéo dài, trên thực tế thì liệu pháp thay thế cortisol đã được thử nghiệm ở những bệnh nhân này. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn kết luận rằng "cách duy nhất để biết liệu những cách tiếp cận này có hiệu quả hay không và loại phụ nào của Covid dài là thông qua các thử nghiệm lâm sàng".
Điều này cũng cho thấy, nghiên cứu mới chỉ là một điểm khởi đầu, giống như rất nhiều nghiên cứu mở đường khác trong khoa học y khoa, cho nên nó sẽ tồn tại những hạn chế. "Nghiên cứu trên tập trung vào PASC vào thời điểm từ 2 đến 3 tháng sau khi bắt đầu nhiễm COVID-19, và do đó không thể phân biệt bệnh nhân nào sẽ phát triển bệnh PASC mãn tính lâu dài hơn. Để hiểu rõ hơn về các đợt Covid kéo dài lâu hơn thì những nghiên cứu tiếp theo sẽ cần theo dõi các bệnh nhân COVID-19 trong thời gian dài hơn."
Ngoài ra, những nghiên cứu trên động vật cũng cần được khuyến khích để tìm hiểu tại sao các yếu tố nguy cơ được xác định dẫn đến các dạng PASC khác nhau. Covid-19 có nhiều biến thể, vì thế nhiệm vụ nữa của các nghiên cứu trong tương lai là xác định xem liệu các biến thể SARS-CoV-2 khác nhau, từ Alpha đến Omicron, có "thay đổi bối cảnh của PASC mà bệnh nhân trải qua hay không".
Nguồn Livescience
Những yếu tố nguy cơ ở đây bao gồm: số lượng cao vật chất di truyền SARS-CoV-2 trong máu sớm khi bị nhiễm bệnh; bệnh nhân nhiễm bệnh có virus Epstein-Barr (EBV) - một mầm bệnh khác; một số tự kháng thể hoặc các phân tử miễn dịch nhắm mục tiêu đến các protein của cơ thể, thay vì nhắm mục tiêu vào virus hoặc vi khuẩn; bệnh nhân đã được chẩn đoán là mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 - một dạng bệnh tiểu đường phổ biến nhất, trong đó các tế bào của cơ thể đề kháng với insulin.
Hầu hết những yếu tố nguy cơ này có thể được xác định vào thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán mắc Covid-19 lần đầu tiên, vì vậy có thể làm tăng hiệu quả từ các phương pháp điều trị kịp thời để có thể ngăn ngừa một số trường hợp COVID kéo dài. Tuy vậy, đây mới chỉ là khởi đầu, các nghiên cứu cần phải làm nhiều việc hơn nữa để tìm hiểu xem liệu những yếu tố nguy cơ này có thực sự thúc đẩy sự phát triển của COVID kéo dài hay không và liệu những tín hiệu có thể được phát hiện sớm hơn này có thể giúp dự đoán được những triệu chứng cụ thể nào có thể kéo dài ở các bệnh nhân khoảng 4, 8 hoặc 12 tháng kể từ sau khi khỏi bệnh hay không. Đó là một nghiên cứu "cho chúng ta một dấu hiệu tuyệt vời" về cách tiếp cận những phương pháp phục hồi cho bệnh nhân sau điều trị.
Nhận biết các yếu tố nguy cơ từ vật chất di truyền trong máu
Nghiên cứu mới với dữ liệu theo dõi khoảng 210 bệnh nhân Covid-19 trong khoảng 2-3 tháng, bắt đầu từ thời điểm họ được chẩn đoán nhiễm bệnh, khoảng 70% trong số này đã phải nhập viện do những biểu hiện trở nặng của Covid-19. Mục tiêu của nghiên cứu là tìm ra những đặc điểm chung của những bệnh nhân tiếp tục phát triển các triệu chứng Covid-19 kéo dài, hay những "di chứng sau cấp tính của COVID-19" (PASC) - một thuật ngữ y học đề cập đến những tác động của SARS-CoV-2 có thể có trên cơ thể sau khi nhiễm COVID-19 ban đầu qua đi.Những bệnh nhân tham gia phục vụ nghiên cứu được lấy mẫu máu và dịch mũi họng khi chẩn đoán, trong suốt quá trình họ bị nhiễm bệnh và sau đó khoảng vài tháng nữa. Ở lần theo dõi cuối cùng, các bệnh nhân cũng đã hoàn thành một cuộc khảo sát về các triệu chứng liên quan đến Covid-19 kéo dài, chẳng hạn như ho, mệt mỏi, khó thở, tiêu chảy, các vấn đề về trí nhớ, khó tập trung, mất vị giác và khứu giác.
Trong số những người được hỏi, có khoảng 37% bệnh nhân cho biết vào lần theo dõi cuối cùng họ vẫn có ít nhất 3 triệu chứng Covid kéo dài, 24% trường hợp báo cáo 1 hoặc vài triệu chứng, 39% còn lại báo cáo không có triệu chứng. Các chuyên gia cũng cho biết rằng những triệu chứng virus hô hấp thường gặp nhất, sau đó là những triệu chứng về thần kinh, mất vị giác và khứu giác, tiếp đến là những triệu chứng về đường tiêu hóa.
Trong nhóm các bệnh nhân tồn tại đến 3 triệu chứng Covid-19 kéo dài trở lên, 95% trong số đó biểu hiện ít nhất một trong 4 yếu tố nguy cơ mới được xác định, đây là những yếu tố có liên quan trực tiếp đến triệu chứng Covid-19 kéo dài bất kể tình trạng nhiễm bệnh ban đầu của bệnh nhân là nặng hay nhẹ. Phát hiện này được chứng thực thông qua việc phân tích máu từ một nhóm độc lập gồm 100 bệnh nhân COVID-19 sau cấp tính, hầu hết trong số họ đều là những bệnh nhân mắc Covid-19 ban đầu nhẹ.
Các yếu tố về tự kháng thể đối với các triệu chứng hô hấp và thần kinh
Trong số những yếu tố nguy cơ này, đáng chú ý nhất là các tự kháng thể (kháng thể kháng nhân) mà nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra trong các mẫu máu của bệnh nhân. Họ đã kiểm tra cụ thể 6 loại tự kháng thể và nhận thấy rằng các kháng thể với đặc điểm khác nhau dường như đều có liên quan đến các triệu chứng Covid kéo dài khác nhau.Chẳng hạn, sự hiện diện của tự kháng thể IFN-α2 tại thời điểm chẩn đoán dự báo các triệu chứng hô hấp của Covid kéo dài. Dạng tự kháng thể này bám vào một chất dẫn truyền hóa học được gọi là interferon alpha-2 giúp chỉ đạo hoạt động của các tế bào miễn dịch cụ thể. Các tác giả nghiên cứu viết "Sự hiện diện của các kháng thể kháng IFN-α2 có thể khiến các tế bào miễn dịch này hoạt động không đúng cách và cũng thúc đẩy sản xuất các phân tử gây viêm trong cơ thể."
Ngoài kháng thể IFN-α2, các nhà nghiên cứu còn sàng lọc 5 tự kháng thể bổ sung, được gọi là kháng thể kháng nhân, liên kết với protein trong nhân tế bào, 5 kháng thể này đều có liên quan đến các rối loạn tự miễn dịch khác nhau, bao gồm bệnh bệnh lupus và viêm khớp dạng thấp, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa rõ liệu chúng có gây hại trực tiếp cho tế bào hay chỉ là dấu hiệu của bệnh tật. "Không có bằng chứng xác đáng cho thấy chúng gây bệnh."
Trong nghiên cứu mới này, các kháng thể kháng nhân này đều có liên quan đến các triệu chứng hô hấp và một số triệu chứng đường tiêu hóa của Covid-19 kéo dài.
Ngược lại với các triệu chứng hô hấp "PASC thần kinh không liên quan đáng kể với sáu tự kháng thể mà chúng tôi đo lường này". Thay vào đó, các triệu chứng thần kinh dường như liên quan đến các kháng thể nhắm vào chính virus coronavirus. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng những kháng thể này nhắm mục tiêu vào vỏ nhân của virus gọi là nucleocapsid, xuất hiện với số lượng lớn sau khi bị nhiễm bệnh và khi các triệu chứng Covid-19 kéo dài xuất hiện. Bởi vì các kháng thể nhắm mục tiêu coronavirus này xuất hiện muộn hơn thay vì vào khoảng thời gian chẩn đoán, vì vậy chúng sẽ không thực sự hữu ích để dự đoán các triệu chứng Covid kéo dài liên quan đến hệ thần kinh.
Epstein-Barr và các vấn đề nhận thức
Các nhà nghiên cứu cũng báo cáo rằng EBV đóng vai trò là một yếu tố nguy cơ chính khác đối với Covid kéo dài. Theo một con số thống kê ước tính, có khoảng 90% đến 95% số người mắc EBV và sau khi bị nhiễm Covid-19 lần đầu tiên, virus này sẽ không hoạt động và ẩn trong các tế bào miễn dịch của cơ thể. Tuy nhiên, nếu một ai đó mặc một căn bệnh nhiễm trùng khác hoặc đang rơi vào trạng thái căng thẳng nặng thì những virus EBV không hoạt động này có thể được "kích hoạt lại", gây ra tái nhiễm trùng.Giống với các tự kháng thể, EBV tái hoạt động được gắn với một nhóm nhánh con cụ thể của các triệu chứng Covid kéo dài. Chẳng hạn như những bệnh nhân có EBV trong máu khi được chẩn đoán cho thấy khả năng cao mắc các vấn đề về trí nhớ, cũng như mệt mỏi, tạo ra nhiều đờm hơn trong phổi. Bình thường các mảnh EBV trong máu sẽ không thể phát hiện, tuy nhiên nếu chúng xuất hiện là một dấu hiệu cho thấy chúng đã tái hoạt động. Điều thú vị là EBV chủ yếu xuất hiện trong máu của bệnh nhân tại thời điểm họ được chẩn đoán mắc Covid-19, và sau đó là sự giảm sút nhanh chóng của nồng độ virus trong máu. Các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời chắc chắn về lý do của hiện tượng này, nhưng họ suy đoán là do khi hệ thống miễn dịch tập hợp lại để chống lại coronavirus, EBV sẽ có cơ hội kích hoạt lại và gây ra thiệt hại lâu dài.
Nhiều nghiên cứu trước đó cũng cho thấy rằng, ở những người mang một bộ gen cụ thể, việc nhiễm EBV có thể gây ra bệnh lupus. Đầu tháng này, các nhà khoa học cũng đã công bố thêm một bằng chứng thuyết phục rằng, ở những người nhạy cảm, virus có thể gây ra bệnh đa xơ cứng - loại bệnh tự miễn dịch ảnh hưởng đến não và tủy sống. "Chúng tôi đã biết EBV đóng một vai trò quan trọng trong bệnh lupus, và bây giờ, trong bệnh đa xơ cứng. Nghiên cứu mới gợi ý rằng EBV cũng có ảnh hưởng đến Covid kéo dài."
Bệnh tiểu đường và RNA coronavirus
Có khoảng 1/3 số bệnh nhân bị Covid kéo dài trong nghiên cứu mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, đặc biệt, những người này sẽ có nhiều hơn khả năng mệt mỏi, ho và các triệu chứng Covid kéo dài do virus đường hô hấp khác. Ngoài ra, khoảng 1/3 số bệnh nhân Covid kéo dài này cũng sẽ mang vật liệu di truyền SARS-CoV-2, hoặc RNA trong máu vào thời điểm chẩn đoán và dễ gặp các triệu chứng COVID dài liên quan đến trí nhớ.Những phân tích về tải lượng virus cho thấy Covid-19 kéo dài có thể được ngăn ngừa hoặc ít nhân là làm giảm nhẹ hơn cá triệu chứng ở những bệnh nhân này, nếu sử dụng thuốc kháng virus để duy trì lượng virus. "Càng nhanh chóng loại bỏ được virus thì càng ít có khả năng phát triển của chúng hoặc sự tự miễn dịch dẫn đến Covid kéo dài." Tuy nhiên, do Covid kéo dài có thể xảy ra ở cả những bệnh nhân nặng và nhẹ, nên các nhà nghiên cứu vẫn chưa khẳng định được liệu điều trị kháng virus tích cực có thể giúp ích được cho tất cả các bệnh nhân hay không.
Những yếu tố rủi ro khác
Ngoài 4 yếu tố là nguy cơ chính đối với Covid kéo dài, nghiên cứu mới cũng chỉ ra rằng những người gặp các triệu chứng hô hấp của Covid kéo dài thường có mức độ hormone căng thẳng cortisol trong máu của họ thấp bất thường. Còn những người xuất hiện các triệu chứng thần kinh mang nồng độ protein trong máu cao bất thường, được cho là phản ánh sự gián đoạn trong chu kỳ ngủ - thức trong sinh học.Những phát hiện này cũng có thể gợi ý thêm về những phương pháp điều trị Covid kéo dài, trên thực tế thì liệu pháp thay thế cortisol đã được thử nghiệm ở những bệnh nhân này. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn kết luận rằng "cách duy nhất để biết liệu những cách tiếp cận này có hiệu quả hay không và loại phụ nào của Covid dài là thông qua các thử nghiệm lâm sàng".
Điều này cũng cho thấy, nghiên cứu mới chỉ là một điểm khởi đầu, giống như rất nhiều nghiên cứu mở đường khác trong khoa học y khoa, cho nên nó sẽ tồn tại những hạn chế. "Nghiên cứu trên tập trung vào PASC vào thời điểm từ 2 đến 3 tháng sau khi bắt đầu nhiễm COVID-19, và do đó không thể phân biệt bệnh nhân nào sẽ phát triển bệnh PASC mãn tính lâu dài hơn. Để hiểu rõ hơn về các đợt Covid kéo dài lâu hơn thì những nghiên cứu tiếp theo sẽ cần theo dõi các bệnh nhân COVID-19 trong thời gian dài hơn."
Ngoài ra, những nghiên cứu trên động vật cũng cần được khuyến khích để tìm hiểu tại sao các yếu tố nguy cơ được xác định dẫn đến các dạng PASC khác nhau. Covid-19 có nhiều biến thể, vì thế nhiệm vụ nữa của các nghiên cứu trong tương lai là xác định xem liệu các biến thể SARS-CoV-2 khác nhau, từ Alpha đến Omicron, có "thay đổi bối cảnh của PASC mà bệnh nhân trải qua hay không".
Nguồn Livescience