ThanhDat
Intern Writer
Mức độ phổ biến của radar mảng pha chủ động tại Trung Quốc hiện đã tăng mạnh. Từ J16 đến J10CE, nhiều dòng máy bay chiến đấu đã được trang bị radar KLJ7A với khoảng 2.000 module T R. Radar này có khả năng phát hiện mục tiêu điển hình trong phạm vi 200 đến 300 km và có thể khóa để dẫn đường tấn công.
Chỉ vài năm trước, Trung Quốc vẫn còn trong giai đoạn đuổi kịp, nhưng giờ công nghệ đã đi vào dây chuyền sản xuất nội địa. Vật liệu gali nitride mang lại mật độ công suất cao và khả năng tản nhiệt tốt, tạo lợi thế đến mức một số sản phẩm bị hạn chế xuất khẩu. Chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh từ nguyên liệu đến lắp ráp giúp Trung Quốc không còn lo bị kìm hãm.
Các sản phẩm được trưng bày tại triển lãm radar cũng cho thấy nhiều bước tiến. Chính sách kết hợp quân sự dân sự khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia, tạo ra nhiều linh kiện tần số vô tuyến mới, giảm chi phí và tăng tốc cải tiến. Từ năm 2004, máy bay cảnh báo sớm KJ2000 đã dùng radar mảng pha tiên tiến, đạt chuẩn hàng đầu thế giới thời điểm đó.
Hiện tại, máy bay cảnh báo sớm nâng cấp Y20 với mạng radar lớn và trọng lượng cất cánh trên 150 tấn sở hữu khả năng phát hiện đáng gờm. Lợi thế về số lượng cũng rõ rệt khi đến năm 2025, số máy bay chiến đấu của Trung Quốc dự kiến vượt Mỹ và tỷ lệ trang bị radar cũng cao hơn.
Radar trên tàu chiến Trung Quốc cũng phát triển ổn định. Radar mảng pha băng tần kép trên tàu khu trục Type 055 có khả năng xử lý điều kiện biển phức tạp và phát hiện mục tiêu tàng hình. Tiến bộ vật liệu giúp thiết bị GaN vận hành hiệu quả ở công suất lớn và môi trường nhiệt độ cao. Dù Mỹ bắt đầu sớm, Trung Quốc đang bắt kịp nhanh.
Trong lĩnh vực FPGA, Mỹ chiếm hơn 90 phần trăm thị trường. Công nghệ 14nm của Trung Quốc đáp ứng tốt nhu cầu nhưng độ ổn định trong môi trường khắc nghiệt vẫn chưa bằng.
Ví dụ với radar trên không, radar AESA của J20 có tầm phát hiện xa, nhưng radar APG77 của F22 được phát triển từ năm 1995 và có nhiều kinh nghiệm trong định hình chùm tia kỹ thuật số cũng như tối ưu phần mềm. Mỹ còn tích lũy dữ liệu thực chiến phong phú từ các hoạt động ở nước ngoài, trong khi Trung Quốc chủ yếu dựa vào mô phỏng.
Về mật độ công suất, Trung Quốc dẫn đầu nhờ vật liệu gali nitride, nhưng Mỹ có lợi thế về tích hợp hệ thống với kiến trúc mở giúp nâng cấp nhanh hơn và hiệu suất cao hơn 20 đến 30 phần trăm. Ở radar cảnh báo sớm, hệ thống E3 và E7 của Mỹ có đĩa quay lớn mang lại vùng phủ tốt hơn. Máy bay cảnh báo sớm Y20 dù nặng hơn nhưng vẫn cần cải thiện về kích thước và tầm bay.
Trong công nghệ nguồn RF trực tiếp, FPGA thế hệ mới của Trung Quốc tiệm cận Xilinx, nhưng sản phẩm của Mỹ hoàn thiện hơn về dải động và khả năng chống nhiễu. Trung Quốc có năng lực nhưng thiếu thời gian tích lũy.
Nhiều đột phá công nghệ liên tục xuất hiện, từ máy phóng điện từ đến máy bay thế hệ sáu. Việc nắm toàn bộ chuỗi công nghiệp giúp tăng tốc cải tiến, cùng sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân và hệ thống xưởng đúc bán dẫn.
Radar KLJ7A xuất khẩu sang Pakistan cho thấy hiệu suất ổn định, chi phí chỉ ở mức hàng triệu VNĐ với tỷ lệ đánh chặn cao. Các trường đại học cũng nghiên cứu tinh thể SiC để tạo vật liệu mới. Thuật toán phần mềm được tối ưu giúp tăng độ chính xác với tín hiệu yếu.
Trong mô phỏng giữa H20 và B2, ba máy bay chiến đấu Trung Quốc trang bị AESA có thể tạo ưu thế khi sử dụng tên lửa mới. Tuy chưa vượt Mỹ ngay, xu hướng thu hẹp khoảng cách rất rõ ràng. Trung Quốc có lợi thế về thể chế giúp nghiên cứu liên tục, trong khi Mỹ đôi khi bị cản trở bởi cơ chế đấu thầu.
Trung Quốc mạnh về số lượng và vật liệu, còn Mỹ dẫn đầu về tích hợp và kinh nghiệm. Radar J16 có thể phát hiện máy bay thế hệ ba trong phạm vi 200 đến 300 km, tương đương radar AN APG82 của F15EX và vẫn xử lý đa mục tiêu tốt.
Radar cảnh báo sớm của Trung Quốc dùng băng tần P có tầm 5.000 km, giải quyết các vấn đề hệ thống. Dù E7A của Mỹ tiên tiến, nền tảng Y20 có kích thước lớn hơn và nhiều tiềm năng phát triển.
Chỉ trong 30 năm, công nghiệp radar Trung Quốc đã chuyển từ vị thế bị dồn vào thế yếu sang bắt kịp nhanh với nhiều công nghệ tiên phong. Radar 4D gắn trên xe đạt hiệu suất hình ảnh vượt trội và tiệm cận lidar. Các dự án hợp tác Trung Mỹ từng thúc đẩy tiến bộ trong ngành. Hiện khoảng cách vẫn còn một thế hệ nhưng đang tiếp tục thu hẹp.
Mỹ có 510 máy bay tiếp dầu giúp tạo năng lực tấn công mạnh mà Trung Quốc khó đạt được trong ngắn hạn. Tuy vậy, chip radar Trung Quốc phát triển rất nhanh, khó bị cản trở. Việc hạn chế xuất khẩu vật liệu GaN càng củng cố lợi thế. Mỹ cũng gặp rủi ro tài chính với hệ thống mới, trong khi Trung Quốc duy trì nguồn lực ổn định.
Radar mảng pha chủ động của Trung Quốc chưa phải tốt nhất thế giới nhưng khoảng cách với Mỹ không còn xa. Điều quan trọng là tiếp tục duy trì đà phát triển để thu hẹp khoảng cách trong tương lai. (Sohu)
Chỉ vài năm trước, Trung Quốc vẫn còn trong giai đoạn đuổi kịp, nhưng giờ công nghệ đã đi vào dây chuyền sản xuất nội địa. Vật liệu gali nitride mang lại mật độ công suất cao và khả năng tản nhiệt tốt, tạo lợi thế đến mức một số sản phẩm bị hạn chế xuất khẩu. Chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh từ nguyên liệu đến lắp ráp giúp Trung Quốc không còn lo bị kìm hãm.
Các sản phẩm được trưng bày tại triển lãm radar cũng cho thấy nhiều bước tiến. Chính sách kết hợp quân sự dân sự khiến nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia, tạo ra nhiều linh kiện tần số vô tuyến mới, giảm chi phí và tăng tốc cải tiến. Từ năm 2004, máy bay cảnh báo sớm KJ2000 đã dùng radar mảng pha tiên tiến, đạt chuẩn hàng đầu thế giới thời điểm đó.
Hiện tại, máy bay cảnh báo sớm nâng cấp Y20 với mạng radar lớn và trọng lượng cất cánh trên 150 tấn sở hữu khả năng phát hiện đáng gờm. Lợi thế về số lượng cũng rõ rệt khi đến năm 2025, số máy bay chiến đấu của Trung Quốc dự kiến vượt Mỹ và tỷ lệ trang bị radar cũng cao hơn.
Radar trên tàu chiến Trung Quốc cũng phát triển ổn định. Radar mảng pha băng tần kép trên tàu khu trục Type 055 có khả năng xử lý điều kiện biển phức tạp và phát hiện mục tiêu tàng hình. Tiến bộ vật liệu giúp thiết bị GaN vận hành hiệu quả ở công suất lớn và môi trường nhiệt độ cao. Dù Mỹ bắt đầu sớm, Trung Quốc đang bắt kịp nhanh.
Khoảng cách công nghệ cốt lõi vẫn tồn tại
Radar mảng pha chủ động của Trung Quốc vẫn thua kém Mỹ ở các linh kiện quan trọng như ADC và chip FPGA. Các công ty Mỹ như Analog Devices và Texas Instruments có tốc độ lấy mẫu cao cùng độ chính xác lớn, hỗ trợ xử lý tín hiệu băng thông rộng tốt hơn. Viện 772 của Trung Quốc đang phát triển nhưng số lượng sản phẩm tốc độ cao còn ít và các thiết bị trên 3G vẫn cần tối ưu thêm.
Trong lĩnh vực FPGA, Mỹ chiếm hơn 90 phần trăm thị trường. Công nghệ 14nm của Trung Quốc đáp ứng tốt nhu cầu nhưng độ ổn định trong môi trường khắc nghiệt vẫn chưa bằng.
Ví dụ với radar trên không, radar AESA của J20 có tầm phát hiện xa, nhưng radar APG77 của F22 được phát triển từ năm 1995 và có nhiều kinh nghiệm trong định hình chùm tia kỹ thuật số cũng như tối ưu phần mềm. Mỹ còn tích lũy dữ liệu thực chiến phong phú từ các hoạt động ở nước ngoài, trong khi Trung Quốc chủ yếu dựa vào mô phỏng.
Về mật độ công suất, Trung Quốc dẫn đầu nhờ vật liệu gali nitride, nhưng Mỹ có lợi thế về tích hợp hệ thống với kiến trúc mở giúp nâng cấp nhanh hơn và hiệu suất cao hơn 20 đến 30 phần trăm. Ở radar cảnh báo sớm, hệ thống E3 và E7 của Mỹ có đĩa quay lớn mang lại vùng phủ tốt hơn. Máy bay cảnh báo sớm Y20 dù nặng hơn nhưng vẫn cần cải thiện về kích thước và tầm bay.
Trong công nghệ nguồn RF trực tiếp, FPGA thế hệ mới của Trung Quốc tiệm cận Xilinx, nhưng sản phẩm của Mỹ hoàn thiện hơn về dải động và khả năng chống nhiễu. Trung Quốc có năng lực nhưng thiếu thời gian tích lũy.
Tiềm năng phát triển radar trong tương lai
Đến năm 2025, tiềm năng radar mảng pha chủ động của Trung Quốc được đánh giá rất lớn. Một số nguồn tin Mỹ dự đoán máy bay chiến đấu thế hệ sáu J50 sẽ vượt F47 nhiều năm về khả năng tàng hình và radar, có thể xuyên thủng phòng thủ và kết hợp cùng tên lửa tầm xa PL15 để cạnh tranh AIM120.
Nhiều đột phá công nghệ liên tục xuất hiện, từ máy phóng điện từ đến máy bay thế hệ sáu. Việc nắm toàn bộ chuỗi công nghiệp giúp tăng tốc cải tiến, cùng sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân và hệ thống xưởng đúc bán dẫn.
Radar KLJ7A xuất khẩu sang Pakistan cho thấy hiệu suất ổn định, chi phí chỉ ở mức hàng triệu VNĐ với tỷ lệ đánh chặn cao. Các trường đại học cũng nghiên cứu tinh thể SiC để tạo vật liệu mới. Thuật toán phần mềm được tối ưu giúp tăng độ chính xác với tín hiệu yếu.
Trong mô phỏng giữa H20 và B2, ba máy bay chiến đấu Trung Quốc trang bị AESA có thể tạo ưu thế khi sử dụng tên lửa mới. Tuy chưa vượt Mỹ ngay, xu hướng thu hẹp khoảng cách rất rõ ràng. Trung Quốc có lợi thế về thể chế giúp nghiên cứu liên tục, trong khi Mỹ đôi khi bị cản trở bởi cơ chế đấu thầu.
Trung Quốc mạnh về số lượng và vật liệu, còn Mỹ dẫn đầu về tích hợp và kinh nghiệm. Radar J16 có thể phát hiện máy bay thế hệ ba trong phạm vi 200 đến 300 km, tương đương radar AN APG82 của F15EX và vẫn xử lý đa mục tiêu tốt.
Radar cảnh báo sớm của Trung Quốc dùng băng tần P có tầm 5.000 km, giải quyết các vấn đề hệ thống. Dù E7A của Mỹ tiên tiến, nền tảng Y20 có kích thước lớn hơn và nhiều tiềm năng phát triển.
Chỉ trong 30 năm, công nghiệp radar Trung Quốc đã chuyển từ vị thế bị dồn vào thế yếu sang bắt kịp nhanh với nhiều công nghệ tiên phong. Radar 4D gắn trên xe đạt hiệu suất hình ảnh vượt trội và tiệm cận lidar. Các dự án hợp tác Trung Mỹ từng thúc đẩy tiến bộ trong ngành. Hiện khoảng cách vẫn còn một thế hệ nhưng đang tiếp tục thu hẹp.
Mỹ có 510 máy bay tiếp dầu giúp tạo năng lực tấn công mạnh mà Trung Quốc khó đạt được trong ngắn hạn. Tuy vậy, chip radar Trung Quốc phát triển rất nhanh, khó bị cản trở. Việc hạn chế xuất khẩu vật liệu GaN càng củng cố lợi thế. Mỹ cũng gặp rủi ro tài chính với hệ thống mới, trong khi Trung Quốc duy trì nguồn lực ổn định.
Radar mảng pha chủ động của Trung Quốc chưa phải tốt nhất thế giới nhưng khoảng cách với Mỹ không còn xa. Điều quan trọng là tiếp tục duy trì đà phát triển để thu hẹp khoảng cách trong tương lai. (Sohu)