Tại sao Newton không bao giờ kết hôn?

V
VNR Content
Phản hồi: 0
Khi còn là một thiếu niên, Newton đã liệt kê những tội lỗi trong quá khứ và trong số đó có đe dọa *******, đốt cha (dượng) và mẹ. Khi trưởng thành, Newton đắm mình trong công việc, không có sở thích và chưa bao giờ kết hôn. Newton đã từ bỏ cuộc sống cá nhân, ông có lẽ không bao giờ có ý định kết hôn hay xây dựng gia đình. Ông muốn cống hiến tất cả cuộc đời cho các công trình khoa học và theo đuổi toán học.
Newton là một đứa trẻ sinh non, ra đời vào ngày Giáng sinh năm 1642 tại nhà riêng Woolsthorpe Manor gần thị trấn Grantham, Anh, vài tháng sau khi cha ông – một nông dân mù chữ - qua đời. Khi Newton lên ba tuổi, mẹ ông – cũng là một nông dân - tái hôn với một giáo sĩ giàu có, Barnabas Smith. Nhưng vì ông này không muốn đứa con riêng của vợ nên mẹ của Newton chuyển đến sống với người chồng mới ở một ngôi làng khác, bỏ lại đứa con trai nhỏ cho ông bà ngoại chăm sóc.
Trải nghiệm bị mẹ bỏ rơi khiến Newton bị ám ảnh và có thể điều này đóng một vai trò trong việc hình thành bản chất đơn độc, không tin tưởng của ông. Khi còn là một thiếu niên, cậu đã liệt kê những tội lỗi trong quá khứ của mình và trong số đó là đe dọa đốt cha (dượng) và mẹ, ******* của họ. Khi trưởng thành, Newton đắm mình trong công việc, không có sở thích và chưa bao giờ kết hôn. Ông thậm chí còn giữ im lặng về một số khám phá khoa học và toán học của mình trong nhiều năm.

Tại sao Newton không bao giờ kết hôn?
Năm 12 tuổi, Newton đăng ký vào một trường học ở Grantham, nơi cậu học tại nhà của một hiệu thuốc bào chế địa phương vì thời gian đi bộ hàng ngày từ trang viên Woolsthorpe là quá dài. Ban đầu, cậu không phải là một học sinh mạnh mẽ; Tuy nhiên, sau cuộc đối đầu với một kẻ bắt nạt ở trường, Newton bắt đầu nỗ lực để cải thiện bản thân và trở thành một học sinh xuất sắc nhất. Tuy nhiên, ở tuổi 15 hoặc 16, cậu bị mẹ bắt nghỉ học (sau đó góa chồng lần thứ hai) và trở về Woolsthorpe Manor để trở thành một nông dân. Newton không hứng thú với công việc nông dân. Cuối cùng, mẹ của Newton đã được cựu hiệu trưởng của con trai bà ở Grantham thuyết phục cho phép cậu trở lại trường học. Sau khi hoàn thành khóa học ở đó, Newton rời đến trường Cao đẳng Trinity, Đại học Cambridge vào năm 1661, bỏ công việc nông nghiệp sau lưng.

3. Cái chết đen vô tình tạo tiền đề cho một trong những hiểu biết nổi tiếng nhất của ông

Năm 1665, sau khi một trận dịch hạch bùng phát ở Anh, Đại học Cambridge đã đóng cửa, buộc Newton phải trở về nhà ở Woolsthorpe Manor. Một ngày nọ, khi đang ngồi trong vườn ở đó, Newton nhìn thấy một quả táo rơi từ trên cây xuống, mang đến cho anh nguồn cảm hứng để cuối cùng hình thành định luật vạn vật hấp dẫn. Newton sau đó đã kể lại câu chuyện về quả táo cho William Stukeley, người đã đưa nó vào cuốn sách, “Hồi ký về cuộc đời của Ngài Isaac Newton,” xuất bản năm 1752.
Vào năm 2010, một phi hành gia của NASA đã mang một phần của cây táo cổ thụ lên tàu con thoi Atlantis để thực hiện một sứ mệnh tới Trạm Vũ trụ Quốc tế. Hiệp hội Hoàng gia, một tổ chức khoa học từng do Newton đứng đầu, đã cho mượn mảnh cây để thực hiện chuyến đi, như một phần của lễ kỷ niệm 350 năm ngày thành lập nhóm. Ngày nay, cây táo ban đầu vẫn tiếp tục phát triển tại Woolsthorpe Manor.

Năm 1669, Newton khi đó 26 tuổi được bổ nhiệm làm giáo sư toán học Lucasian tại Cambridge, một trong những trường đại học lâu đời nhất thế giới, có nguồn gốc từ năm 1209. (Newton là người thứ hai giữ chức giáo sư Lucasian; người thứ 17, từ năm 1979 đến 2009 là nhà vật lý học và tác giả cuốn “Lược sử thời gian” Stephen Hawking.) Mặc dù ông vẫn ở Cambridge gần 30 năm, Newton tỏ ra rất ít quan tâm đến việc giảng dạy, các bài giảng của ông có số người tham dự rất thưa thớt. Newton chẳng quan tâm đến điều này, ông chỉ tập trung vào nghiên cứu của riêng ông.
Vào năm 1696, Newton được bổ nhiệm vào vị trí giám đốc của Xưởng đúc tiền Hoàng gia, nơi chịu trách nhiệm sản xuất tiền tệ của nước Anh. Ông rời Cambridge, ngôi nhà lâu đời của mình và chuyển đến thủ đô, nơi có xưởng đúc tiền ở Tháp Luân Đôn. Ba năm sau, Newton được thăng chức làm chủ xưởng đúc tiền, một chức vụ mà ông giữ cho đến khi qua đời vào năm 1727. Trong nhiệm kỳ tại xưởng đúc tiền, Newton đã giám sát một sáng kiến lớn nhằm đưa tất cả các đồng tiền cũ của đất nước ra khỏi lưu thông và thay thế chúng bằng tiền tệ đáng tin cậy hơn. Ông ta cũng tập trung vào việc điều tra những kẻ làm tiền giả, và kết quả là ông đã làm quen với giới khét tiếng của thành phố khi tự mình truy tìm và phỏng vấn những tên tội phạm bị nghi ngờ. Cũng vì thế ông nhận được những lời đe dọa chết người. Tuy nhiên, một số kẻ làm giả mà ông điều tra đã bị đưa lên giá treo cổ.
Ngoài những nỗ lực khoa học mà ông được biết đến nhiều nhất, Newton đã dành phần lớn cuộc đời để theo đuổi một mối quan tâm khác, giả kim thuật, với mục tiêu bao gồm việc tìm ra viên đá của nhà triết học, một chất được cho là có thể biến các kim loại thông thường như chì và sắt thành vàng. Ông đã giữ bí mật về các thí nghiệm giả kim và ghi lại một số nghiên cứu của mình dưới dạng mã.
Trong số các dự án nghiên cứu khác, Newton đã phân tích Kinh thánh trong nỗ lực tìm kiếm những thông điệp bí mật về cách vũ trụ vận hành.
Từ năm 1689 đến năm 1690, Newton là thành viên Quốc hội, đại diện cho Đại học Cambridge. Trong thời gian này, cơ quan lập pháp đã ban hành Tuyên ngôn Nhân quyền, trong đó hạn chế quyền lực của chế độ quân chủ và đặt ra các quyền của Nghị viện cùng với một số quyền cá nhân. Tuy nhiên, những đóng góp của Newton cho Nghị viện rất hạn chế; Ông được cho là chỉ nói một lần, khi ông ta yêu cầu một người mở cửa đóng cửa sổ vì trời lạnh. Tuy nhiên, khi ở London, Newton đã làm quen với một số người có ảnh hưởng, từ Vua William III đến triết gia John Locke. Newton phục vụ một nhiệm kỳ ngắn thứ hai trong Quốc hội, từ 1701 đến 1702, và một lần nữa dường như cũng chẳng đóng góp gì đáng kể.
Newton cũng có thể từng ghen tị và thù hận với những đối thủ trí tuệ của ông. Trong số những người mà ông ta thù hận có nhà toán học và triết học người Đức Gottfried Leibniz; hai người đàn ông đã có một cuộc chiến gay gắt về việc ai là người phát minh ra phép tính. Newton đã phát triển một phiên bản giải tích vào những năm 1660 nhưng không xuất bản công trình của mình vào thời điểm đó. Vào những năm 1670, Leibniz đã xây dựng phiên bản giải tích của riêng mình, xuất bản tác phẩm một thập kỷ sau đó. Newton sau đó tố cáo rằng học giả người Đức đã đạo văn các tác phẩm chưa được xuất bản của mình sau khi các tài liệu tóm tắt nó được lưu hành thông qua Hiệp hội Hoàng gia. Leibniz cho rằng ông đã đạt được kết quả của mình một cách độc lập và ngụ ý rằng Newton đã ăn cắp công trình đã xuất bản của ông. Trong nỗ lực tự bảo vệ mình, Leibniz cuối cùng đã kháng cáo với Hiệp hội Hoàng gia và vào năm 1712, Newton, người đã giữ chức chủ tịch của tổ chức từ năm 1703,đã phải đồng ý việc tập hợp một ủy ban công bằng để xem xét vấn đề. Nhưng thay vào đó, ông đã tập hợp ủy ban với những người ủng hộ mình và thậm chí viết báo cáo của nhóm, công khai ghi nhận ông đã khám phá ra phép tính. Tuy nhiên, ngày nay, hệ thống giải tích của Leibniz là hệ thống thường được sử dụng.
Năm 1705, Newton được Nữ hoàng Anne phong tước hiệp sĩ. Vào thời điểm đó, ông trở nên giàu có sau khi thừa kế tài sản của mẹ mình sau khi bà qua đời vào năm 1679 và cũng đã xuất bản hai tác phẩm lớn, "Các nguyên tắc toán học của triết học tự nhiên" năm 1687 (thường được gọi là "Principia") và "Opticks" năm 1704.
Sau khi nhà khoa học nổi tiếng qua đời ở tuổi 84 vào tháng 3/1727, ông được chôn cất tại Tu viện Westminster, nơi an nghỉ của các quốc vương Anh cũng như những người không thuộc hoàng tộc nổi tiếng như Charles Darwin, Charles Dickens và nhà thám hiểm David Livingstone.

>> Newton phát minh hay phát hiện ra những gì?

 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Thành viên mới đăng
Top