Chính sách trồng trọt
Cuối thời Đông Hán, lúc này nhà Đông Hán đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh liên tiếp, từ Khởi nghĩa khăn xếp vàng đến cuộc nổi loạn Đổng Trác đã tác động rất lớn đến toàn xã hội. Đồng thời, thiên tai cũng ập đến với nhà Đông Hán.Cộng thêm những thảm họa thiên nhiên không thể tránh khỏi, gây khó khăn cho những con người vốn đã chật vật mưu sinh để tồn tại. Lúc này, một số anh hùng có tham vọng lớn cũng bắt đầu trỗi dậy nhưng cuộc sống của người dân không có nhiều thay đổi. Khi thiên tai xảy ra, người dân mất mùa và nạn đói thường kéo theo những thảm họa khác.
Vào thời điểm này, để tránh chiến tranh, nạn đói và bệnh dịch, người dân phải rời bỏ nhà cửa và lang thang trong các thành phố, di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác. Vì vậy, ngoài lãnh thổ, các thế lực lúc bấy giờ đều tranh giành lương thực và con người.
Ngay cả sau khi có được lương thực và đất đai, điều quan trọng là phải sử dụng chúng với hiệu quả tối đa, vì vậy vào thời điểm này tất cả các lực lượng cố gắng hết sức để tăng sản lượng trên lãnh thổ của mình. Suy cho cùng, lúc nào cũng có đủ lương thực là quan trọng nhất, lương thực đối với nhân dân là quan trọng nhất.
Đó là thời điểm Tào Tháo thực hiện hệ thống canh tác và nó là hệ thống hiệu quả nhất trong số các lãnh chúa. Có hai loại khu định cư, một là khu định cư quân sự và loại kia là khu định cư dân sự. Như tên gọi của nó, các chính sách nhắm vào những người khác nhau. Tất nhiên, hai biện pháp quản lý cũng khác nhau.
Phương pháp đầu tiên được áp dụng là binh lính phải ra chiến trường và lợi ích thu được từ việc làm nông ít hơn nhiều so với người dân thường. Mục tiêu chính là những người tị nạn không có đất, nhà nước sẽ phát đất cho dân canh tác, sau đó dân sẽ nộp lại lương thực.
Nếu gia đình nào sử dụng bò của nhà nước để làm ruộng thì cuối năm sẽ phải giao nộp 60% thóc cho nhà nước, còn lại chỉ được giữ lại 40%. Tuy nhiên, nếu gia đình nào có nguồn tài chính dồi dào, có đàn gia súc trong nhà và có thể tự canh tác đất đai thì cuối năm chỉ cần giao cho nhà nước một nửa số đó.
Thực tế, phương pháp này vẫn rất có lợi, không ảnh hưởng đến lương thực quốc gia do ảnh hưởng của thiên tai. Bởi vì dù trong hoàn cảnh nào thì quốc gia này vẫn chiếm phần lớn nguồn thu từ lương thực, đồng thời cũng giải quyết được vấn đề người dân phải sống lang thang ngoài đường và chết đói.
Mặc dù hệ thống canh tác đã chèn ép sâu sắc người dân nhưng trong thời điểm khó khăn lúc bấy giờ, đó là cách tốt nhất để lập lại trật tự và dân số. Luôn phải có sự hy sinh vì tình hình chung, đây cũng chính là lý do khiến chế độ ruộng đất bị bãi bỏ sau đại đoàn kết.
Hệ thống pháp luật Tháo luận
Tào Tháo đề cao vai trò của pháp luật trong việc quản lý đất nước. Ông đã xây dựng hệ thống pháp luật mới mang tên Tháo Luận, chú trọng đến tính công bằng và hiệu quả, góp phần củng cố trật tự xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đặc biệt, trong số ba phát kiến này, Hệ thống Pháp Luật Tháo Luận được đánh giá là có tầm nhìn vượt thời đại. So với các hệ thống pháp luật cùng thời, Tháo Luận đề cao tính nhân văn, bình đẳng và minh bạch hơn, thể hiện tư tưởng tiến bộ của Tào Tháo. Mặc dù hệ thống này không được áp dụng rộng rãi sau khi Tào Tháo qua đời, nhưng những giá trị cốt lõi của nó vẫn được lưu giữ và ảnh hưởng đến các triều đại sau.
Chế độ nhân tài
Tam Quốc luôn là thời đại mà nhân tài xuất hiện đông đảo. Như người ta vẫn nói, thời đại nào cũng tạo ra anh hùng. Trong hoàn cảnh tam quốc lúc bấy giờ, muốn nói phe nào có nhiều nhân tài nhất thì phải là Tào Ngụy. Điều này liên quan đến tầm quan trọng của Tào Tháo đối với nhân tài.
Ai cũng biết Tào Tháo rất đa nghi nhưng cũng khát nhân tài. Thế hệ sau sẽ gọi Tào Ngụy của Tào Tháo là “tướng dữ như mây, quân cố vấn như mưa”. Cố vấn của nhà Thục Hán được thế hệ sau biết đến với cái tên Gia Cát Lượng sau thời Pháp Chính. Nhưng khi nói đến cố vấn của Tào Tháo thì có rất nhiều. Vì vậy, Tào Tháo có quan niệm riêng khi đối đầu với nhân tài, đó là chế độ nhân tài.
Có thể nói, thử thách đầu tiên khi đối mặt với nhân tài là liệu họ có đủ khả năng để “có đạo đức” hay không. Nhưng nguyên tắc đạo đức này quá rộng, và có quá nhiều thứ có thể bị thao túng trong việc đề cao lòng hiếu thảo và liêm chính.
Tào Tháo biết rõ nhược điểm của chính sách này nên điều Tào Tháo coi trọng ở nhân tài chính là năng lực. Chỉ cần người có năng lực, bất kể xuất thân hay việc làm trong quá khứ vẫn đều được Tào Tháo trọng dụng.
Có thể nói, vào cuối thời nhà Hán, trẻ em xuất thân từ gia đình nghèo không có cơ hội thăng tiến. Những người đề cao lòng hiếu thảo và sự chính trực rất coi trọng mối quan hệ. Sau khi Tào Tháo thực hiện chính sách này, nhiều trẻ em con nhà nghèo đã được tạo cơ hội, và tất nhiên ông cũng chiêu mộ được rất nhiều nhân tài cho mình. Tài năng tượng trưng cho tất cả và cuối cùng đã được hiện thực hóa ở Tào Tháo trong một thời gian ngắn.